Links - Liên kết dến các trang Website. Blogspot, fb, chuyên trang thơ THI YÊN ĐÌNH NGUYÊN

23 tháng 1, 2010

KHUẤT NGUYÊN - MỘT CAO NHÂN TRÍ KIỆT



KHUẤT  NGUYÊN
Khuất Nguyên là nhà thơ được nhân dân Trung Quốc kính trọng nhất và yêu thích nhất trong hàng nghìn năm nay. Ông sống vào thời ky Chiến Quốc (từ năm 475 đến năm 221 trước công nguyên ). Cái gọi là “Chiến Quốc” là vì đây là một thời đại các nước chư hầu san sát, hỗn chiến không ngừng. Trong đó nước Tần và nước Sở là hai nước có thực lực lớn mạnh nhất lúc đó. Mười mấy nước nhỏ khác đều dựa vào hai nước này.
Khuất Nguyên (chữ Hánbính âmqū yúan), tên Bình, biệt hiệu Linh Quân (340 TCN - 278 TCN) là một chính trị gia, một nhà thơ yêu nước nổi tiếng của Trung Quốc. Ông là người trong hoàng tộc nước Sở, làm chức Tả Đồ cho Sở Hoài Vương. Ông học rộng, nhớ dai, giỏi về chính trị, lại có tài văn chương. Lúc đầu ông được vua yêu quý, sau có quan lại ganh tài ông, tìm cách hãm hại. Vua Sở nghe lời gièm pha nên ghét ông. Ông âu sầu, ưu tư viết thiên Ly Tao để tả nỗi buồn bị vua bỏ.
Ngoài tập Ly Tao là tập thơ bất hủ của ông để lại, ông còn có nhiều sáng tác thơ khác như Sở từThiên Vấn (Hỏi trời).v.v.
Đến cuối đời ông bị vua Tương Vương (người nối ngôi Sở Hoài Vương) đày ra Giang Nam (phía nam sông Dương Tử). Ông thất chí, tự cho mình là người trong sống trong thời đục, suốt ngày ca hát như người điên, làm bài phú "Hoài Sa" rồi ôm một phiến đá, gieo mình xuống sông Mịch La tự tử.
Ông cũng chính là nhân vật trong sự tích tết Đoan Ngọ (Đoan Dương). Theo truyền thuyết này, để tưởng nhớ về con người và cái chết bi ai của ông, hàng năm người ta tổ chức vào ngày mồng năm tháng năm là ngày tết Đoan Dương ở Trung Quốc và một số nước khác ở Châu Á.
TÍNH CÁCH
Ông là người tính tình luôn thay đổi một cách kỳ dị thể hiện qua các trang viết của ông: vừa vui đã buồn, vừa cười đã khóc. Vừa muốn đi xa lại đổi ý. Đòi lên chầu Thượng Đế lại muốn trở về cố hương, rồi lại muốn tự tử. Tình cảm của ông biểu hiện một cách trung thực: mỗi chữ là một tiếng thở dài lâm ly, một giọt nước mắt não ruột. Ít có một văn nhân nào đau khổ, thác loạn đến thế.
Ông không chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình được: "Chẳng thà nhảy xuống sông Tương, vùi xác vào bụng cá, chớ sao đang trắng lôm lốp, lại chịu để vấy phải bụi dơ”.
Cái câu mà người đời nghìn đời sau vẫn nói khi nhắc đến tính cách KHUẤT NGUYÊN: CẢ ĐỜI (Thiên hạ) SAY, MỘT MÌNH TA TỈNH - CẢ ĐỜI ĐỤC MỘT MÌNH TA TRONG..  SAO TA KHÔNG UỐNG HẾT NƯỚC ĂN HẾT BÃ CHO SAY LUÔN MỘT THỂ, KHÔNG KHUẤY BÙN KHOẮNG CẶN BẨN CHO ĐỤC LUÔN MỘT THỂ..."
Thật chỉ có ở bậc cao nhân, tuấn kiệt



Khuất Nguyên là quý tộc nước Sở, và đảm nhiệm chức quan cấp cao. Ông có học thức uyên bác, giỏi về ngoại giao, ban đầu, ông được nhà vua nước Sở ưa thích và tin tưởng. Trong thời đại đó, nhà vua và quyền quý các nước đều tranh nhau thu hút nhân tài phục vụ cho mình, cho nên họ tiếp đãi nhân tài một cách lễ phép. Lúc đó, nhiều người có học thức nổi tiếng đều du thuyết ở các nước, nỗ lực hết sức nhằm thực hiện lý tưởng chính trị của mình. Nhưng Khuất Nguyên không như vậy, ông rất quyến luyến tổ quốc, mong phụ tá nhà vua nước Sở bằng tài hoa của mình, khiến nước Sở chính trị dân chủ, thực lực nhà nước mạnh mẽ. Với lý tưởng như trên, Khuất Nguyên cho đến chết cũng không muốn rời khỏi tổ quốc. Điều đáng tiếc là, vì Khuất Nguyên có mâu thuẫn gay gắt với đám quan lại nắm chức quyềnhủ bại nước Sở về mặt nội chính và ngoại giao, hơn nữa lại bị người khác vu cáo hãm hại, Khuất Nguyên bị nhà vua nước Sở xa lánh, sau đó, địa vị nước lớn và thực lực nhà nước mạnh mẽ của nước Sở dần dần suy sụp. Năm 278 trước công nguyên, quân đội nước Tần đánh phá Dĩnh Đô, thủ đô nước Sở. Nước tan nhà tan, Khuất Nguyên không chịu nổi nỗi căm phẫn,
Khuất Nguyên để lại di sản bất hủ cho đời sau. Là nhà thơ sáng tác độc lập đầu tiên, bài thơ “Ly Tao”—tác phẩm tiêu biểu của ông là một bài thơ trữ tình chính trị mang đậm chủ nghĩa lãng mạn dài nhất trong lịch sử văn học cổ đại Trung Quốc. Trong bài thơ, tác giả dẫn lại nhiều điển tích lịch sử, mong nhà vua nước Sở học các quân chủ thánh hiền sáng suốt trong truyền thuyết như nhà vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, trong nước trọng dụng nhân tài, công bằng vô tư, thực thi đức chính; đối ngoại thì tích cực liên hợp với các nước khác chống lại nước Tần. Bài thơ “Ly Tao” đột phá hình thức biểu hiện của cuốn sách “Kinh Thi”—tập thơ đầu tiên của Trung Quốc, tăng cường sức biểu hiện của thơ ca, mở ra một không gian mới cho sáng tác thơ ca cổ đại Trung Quốc. Do vậy, người đời sau gọi chung “Sở Từ” và “Kinh Thi” là “Phong, Tao”. “Phong, Tao” là cội nguồn của hai truyền thống chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong lịch sử thơ ca Trung Quốc.
Ngoài tác phẩm tiêu biểu “Ly Tao” ra, bài văn “Thiên Vấn” của Khuất Nguyên là một bài thơ lạ lùng hiếm thấy từ trước đến nay, dùng câu nghi vấn nêu ra 172 vấn đề liền với ông trời, đề cập tới nhiều lĩnh vực như thiên văn, địa lý, văn học, triết học v.v., thể hiện tinh thần khoa học mạnh dạn hoài nghi quan niệm truyền thống và theo đuổi chân lý của nhà thơ. Ngoài ra, “Cửu Ca” là một nhóm bài hát tế thần, được sáng tác trên cơ sở bài hát tế lễ dân gian, trong thơ, nhà thơ sáng tạo nhiều hình tượng thần tiên, đa số là bài hát tình yêu giữa loài người và thần tiên.
Tác phẩm của Khuất Nguyên thể hiện nhiều ý nghĩ lạ lùng, ông nhân cách hóa hoa cỏ cây cối, sáng tạo nhiều hình tượng nàng tiên, để gửi gắm tình cảm cao cả của mình. Cho nên, đọc tác phẩm của Khuất Nguyên, không những có thể thể nghiệm cái đẹp đẽ của ngôn ngữ, cái lạ lùng của ví dụ, mà còn có thể thể nghiệm tình cảm cao cả và tình yêu quê hương yêu đất nước của nhà thơ. Bởi vậy, hàng nghìn năm nay, Khuất Nguyên luôn là nhà thơ cổ điển được người Trung Quốc kính trọng nhất.TÁC

LY TAO
(Lời oán thán)
Ly Tao (tiếng Hán: 離騷Pinyin: Lí São) là một trong những bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc do Khuất Nguyên sáng tác. Đây là một tác phẩm bất hủ của ông. Tác phẩm dài 370 câu tả tâm sự của tác giả.
Ly Tao được dịch ra theo nghĩa tiếng Việt là sự "oán thán" (lời than vãn), nhưng cũng được biết đến với nghĩa là "sự buồn phiền quá đỗi" hay một "tâm trạng xáo trộn". Đặc sắc của bài trường thiên này là lời bi thảm triền miên, thường dùng lối tượng trưng, lối nhân cách hóa và dẫn rất nhiều điển cố thần thoại.
LY TAO
Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, 
Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung. 
Nhiếp đề trinh vu mạnh trâu hề, 
Duy canh dần ngô dĩ giáng.
 
Hoàng lẫm quỹ dư sơ độ hề, 
Triệu tích dư dĩ gia danh. 
Danh dư viết Chính Tắc hề, 
Tự dư viết Linh Quân. 
Phân ngô ký hữu thử nội mỹ hề, 
Hựu trùng chi dĩ tu năng. 
Hỗ giang ly dữ tịch chi hề, 
Nhẫn thu lan dĩ vi bội. 
Cốt dư nhược tương bất cập hề, 
Khủng niên tuế chi bất ngô dữ. 
Triệu khiên tì chi Mộc lan hề, 
Tịch lãm châu chi túc mụ. 
Nhật nguyệt hốt kỳ bất yêm hề, 
Xuân dữ thu kỳ đại tư. 
Duy thảo mộc chi linh lạc hề, 
Khủng mỹ nhân chi trì mộ. 
Bất phủ tráng nhi khí uế hề, 
Hà bất cải hồ thử độ? 
Thừa kỳ ký dĩ trì sính hề, 
Lai ngô đạo phù tiên lộ. 
Tích tam hậu chi thuần tuý hề, 
Cố chúng phương chi sở tại. 
Tạp thân tiêu dữ khuẩn quế hề, 
Khởi duy nhân phù huệ chi. 
Bỉ Nghiêu Thuấn chi cảnh giới hề, 
Ký tuân đạo nhi đắc lộ. 
Hà Kiệt Trụ chi xương phỉ hề, 
Phù duy tiệp kính dĩ quẫn bộ. 
Duy phù đảng nhân chi du lạc hề, 
Lộ u muội dĩ hiểm ải. 
Khởi dư thân chi đạn ương hề, 
Khủng hoàng dư chi bại tích. 
Hốt bôn tẩu dĩ tiên hậu hề, 
Cập tiền vương chi chủng vũ. 
Thuyên bất sát dư chi trung tình hề, 
Phản tín sàm nhi tễ nộ. 
Dư cố tri kiển kiển chi vi hoạn hề, 
Nhẫn chi bất năng xả dã. 
Chi cửu thiên dĩ vi chính hề, 
Phù duy linh tu chi cố dã. 
Viết hoàng hôn dĩ vi kỳ hề, 
Khương trung đạo nhi cải lộ. 
Sơ ký dữ dư thành ngôn hề, 
Hậu hối độn nhi hữu tha. 
Dư bất nan phù ly biệt hề, 
Thương linh tu chi sắc hoá. 
Dư ký tư lan chi cửu uyển hề, 
Hựu thụ huệ chi bách mẫu. 
Huề lưu di dữ yết xa hề, 
Tạp đỗ hành dữ phương chi. 
Ký chi diệp chi tuấn mậu hề, 
Nguyện sĩ thì hồ ngô tương ngải. 
Tuy uỷ tuyệt kỳ diệc hà thương hề, 
Ai chúng phương chi vu uế. 
Chúng giai cạnh tiến dĩ tham lam hề, 
Bằng bất yếm hồ câu sách. 
Khương nội thứ ký dĩ lượng nhân hề, 
Các hưng tâm nhi tật đố. 
Hốt trì vụ dĩ truy trục hề, 
Phi dư tâm chi sở cấp. 
Lão nhiễm nhiễm kỳ tương chí hề, 
Khủng tu danh chi bất lập. 
Triêu ẩm mộc lan chi truỵ lộ hề, 
Tịch xan thu cúc chi lạc anh. 
Cẩu dư tình kỳ tín khoá dĩ luyện yếu hề, 
Trường kham hạm diệc hà thương! 
Lãm mộc căn dĩ kết chỉ hề, 
Quán bệ lệ chi lạc nhị. 
Kiều khuẩn quế dĩ nhân huệ hề, 
Tác hồ thằng chi sỉ sỉ. 
Kiển ngô pháp phủ tiền tu hề, 
Phi thế tục chi sở phục! 
Tuy bất chu ư kim chi nhân hề, 
Nguyện y Bành Hàm chi di tắc. 
Trường thái tức dĩ yểm thế hề, 
Ai dân sinh chi đa gian. 
Du tuy hiếu tu khoá dĩ cơ ky hề, 
Kiển triêu đốt nhi tịch thế. 
Kỳ thế dư dĩ huệ tương hề, 
Hựu thân chi dĩ lãm chi. 
Diệc dư tâm chi sở thiện hề, 
Tuy cửu tử kỳ do vị hối. 
Oán linh tu chi hạo đãng hề, 
Chung bất sát phù dân tâm. 
Chúng nữ tật dư chi nga mi hề, 
Dao trác vị dư dĩ thiện dâm. 
Cố thì tục chi công xảo hề, 
Miến quy củ nhi cải thố. 
Bội thằng mặc dĩ truỵ khúc hề, 
Cạnh chu dung dĩ vi độ. 
Ðồn uất ấp dư sá sế hề, 
Ngô độc cùng khốn thử thì dã. 
Chí điểu chi bất quân hề, 
Tự tiền thế nhi cố nhiên. 
Hà phương viên chi năng chu hề, 
Phù thục dị đạo nhi tương yên! 
Khuất tâm nhi ức chí hề, 
Nhẫn vưu nhi nhương cấu. 
Phục thanh bạch dĩ tử trực hề, 
Cố tiền thành chi sở hậu. 
Hối tướng đạo chi bất sát hề, 
Diên trữ hồ ngô tương phản! 
Hồi trẫm xa dĩ phục lộ hề, 
Cập hành mê chi vị viễn, 
Bộ dư Mã u lan cao hề, 
Trì tiêu khâu thả yên chi tức. 
Tiến bất nhập dĩ ly vưu hề, 
Thoái tương phục tu ngô sơ phục. 
Chế kỳ hà dĩ vi y hề, 
Tập phù dung dĩ vi thường. 
Bất ngô tri kỳ diệc dĩ hề, 
Cẩu dư tình kỳ tín phương. 
Cao dư quan chi ngập ngập hề, 
Trường dư bội chi lục ly. 
Phương dữ trạch kỳ tạp nữu hề, 
Duy chiêu chất kỳ do vị khuy. 
Hốt phản cố dĩ du mục hề, 
Tương vãng quan hồ tư hoang. 
Bội bân phân kỳ phồn sức hề, 
Phương phi phi kỳ di chương. 
Dân sinh các hữu sở nhạo hề, 
Dư độc hiếu tu dĩ vi thường. 
Tuy thế giải ngô do vị biến hề, 
Khởi dư tâm chi khả trừng. 
Nữ tu chi thiền viên hề, 
Thân thân kỳ lệ dư. 
Viết: "Cổn hãnh trực dĩ vong thân hề, 
Chung nhiên yểu hồ Vũ chi dã. 
Nhữ hà bác kiển nhi hiếu tu hề, 
Phân độc hữu thử khoá tiết. 
Tư lục thi dĩ doanh thân hề, 
Phán độc ly nhi bất phục. 
Chúng bất khả hộ thuyết hề, 
Thục vân sát dư chi trung tình? 
Thế tịnh cử nhi hiếu bằng hề, 
Phù hà quynh độc nhi bất dư thính". 
Y tiền thánh dĩ tiết trung hề, 
Khoái bằng tâm nhi lịch tư. 
Tế Nguyên Tương dĩ nam chinh hề, 
Tựu Trùng Hoa nhi trần từ. 
Khải "cửu biện" dữ "cửu ca" hề, 
Hạ Khang nhu dĩ tự túng. 
Bất cố nạn dĩ đồ hậu hề, 
Ngũ tử dụng thất hồ gia hạng. 
Nghệ dâm tu dĩ dật điền hề, 
Hựu hiếu xạ phù phong hồ. 
Cố loạn lưu kỳ tiển chung hề, 
Xác hựu tham phù quyết gia. 
Ngáo thân bị phục cường ngữ hề, 
Túng dục nhi bất nhẫn. 
Nhật khang ngu nhi tự vong hề, 
Quyết thủ dụng phù điên vẫn. 
Hạ Kiệt chi thường vi hề, 
Nãi toại yên nhi phùng ương. 
Hậu Tân chi trư hải hề, 
Ân tông dụng chi bất trường. 
Thang,  nghiễm nhi chi kính hề, 
Chu luận đạo nhi mạc sai. 
Cử hiền tài nhi thụ năng hề, 
Tùng thằng mặc nhi bất pha. 
Hoàng thiên vô tư a hề, 
Lãm dân đức yên thố phụ. 
Phù duy thánh triết dĩ mậu hạnh hề, 
Cẩu đắc dụng thử hạ thổ. 
Chiêm tiền nhi cố hậu hề, 
Tướng quan dân chi kế cực. 
Phù thục phi nghĩa nhi khả dụng hề? 
Thục phi thiên nhi khả phục? 
Ðiếm dư thân nhi nguy tử hề, 
Lãm dư sơ kỳ do vị hối. 
Bất lượng tạc nhi chính nhuế hề, 
Cố tiền tu dĩ trư hải. 
Tăng hư hi dư uất ấp hề, 
Ai trẫm thì chi bất đáng. 
Lãm nhự huệ dĩ yểm thế hề, 
Chiêm dư khâm chi lãng lãng. 
Quy phu nhẫm dĩ trần từ hề, 
Cảnh ngô ký đắc thử trung chính. 
Tứ ngọc cù dĩ thừa ế hề, 
Kháp ai phong dư thượng chinh. 
Triêu phát nhẫn ư Thương Ngô hề, 
Tịch dư chi hồ Huyền Phố. 
Dục thiểu lưu thử linh toả hề, 
Nhật hốt hốt kỳ tương mộ. 
Ngô linh Hy Hoà nhĩ tiết hề, 
Vọng Yêm - tu nhi vật bách. 
Lộ man man kỳ tu viễn hề, 
Ngô tương thượng hạ nhi cầu sách. 
Ẩm dư mã ư Hàm - trì hề, 
Tổng dư bí hồ phù tang. 
Chước nhược mộc dĩ phất nhật hề, 
Liêu tiêu diêu dĩ tương dương. 
Tiền Vọng Thư sử tiên khu hề, 
Hậu Phi Liêm sứ bôn chúc. 
Loan hoàng vị dư tiên giới hề, 
Lôi sư cáo dư dĩ vi cụ. 
Ngô linh phượng điểu phi đằng hề, 
Kế chi dĩ nhật dạ. 
Phiêu phong đồn kỳ tương ly hề, 
Suất vân nghê nhi lại nhạ. 
Phân tổng tổng kỳ ly hợp hề, 
Ban dục ly kỳ thượng hạ. 
Ngô linh Ðế hôn khai quan hề, 
Ỷ xương hạp nhi vọng dư. 
Thì ái ái kỳ tương bãi hề, 
Kết u lan nhi diên trữ. 
Thế hỗn trọc nhi bất phân hề, 
Hiếu tế mỹ nhi tật đố. 
Triêu ngô tương tế ư Bạch thuỷ hề, 
Ðăng Lãng phong nhi tiết mã. 
Hốt phản cố dĩ lưu thế hề, 
Ai cao khâu chi vô nữ. 
Kháp ngô du thủ xuân cung hề, 
Chiết quỳnh chi dĩ kế bội. 
Cập vinh hoa chi vị lạc hề, 
Tướng hạ nữ chi khả di. 
Ngô linh Phong long thừa vân hề, 
Cầu Phục phi chi sở tại. 
Giải bội tương dĩ kết ngôn hề, 
Ngô linh Kiến Tu dĩ vi lý. 
Phân tổng tổng kỳ ly hợp hề, 
Hốt vĩ hoạch kỳ nan thiên. 
Tịch quy thứ ư Cùng thạch hề, 
Triêu trạc phát hồ Vĩ bàn. 
Bảo quyết mỹ dĩ kiêu ngạo hề, 
Nhật khang ngu dĩ dâm du. 
Tuy tín mỹ nhi vô lễ hề, 
Lai vi khí nhi cải đầu. 
Lãm tướng quan ư tứ cực hề, 
Chu lưu hồ thiên dữ nãi hạ. 
Vọng Dao đài chi yển kiển hề, 
Kiến Hữu nhung chi dật nữ. 
Ngô linh Trấm vi môi hề, 
Trấm cáo dư dĩ bất hảo. 
Hùng cưu chi minh thệ hề, 
Dư do ố kỳ điêu xảo. 
Tâm do dự nhi hồ nghi hề, 
Dục tự thích nhi bất khả. 
Phượng hoàng ký thụ di hề, 
Khủng Cao Tân chi tiên ngã. 
Dục viễn tập nhi vô sở chỉ hề, 
Liêu phù du dĩ tiêu diêu. 
Cập Thiếu Khang chi vị gia hề, 
Lưu Hữu Ngu chi nhị diêu. 
Lý nhược nhi môi chuyết hề, 
Khủng đạo ngôn chi bất cố. 
Thế hỗn trọc nhi tật hiền hề, 
Hiếu tế mỹ nhi xưng ác. 
Khuê trung ký dĩ thuý viễn hề, 
Triết vương hựu bất ngộ. 
Hoài trấm tình nhi bất phát hề, 
Dư yên năng nhẫn dữ thử chung cổ. 
Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề, 
Mệnh Linh Phân vị dư chiêm chi. 
Viết: lưỡng mỹ kỳ tất hợp hề, 
Thục tín tu nhi mộ chi? 
 cửu châu chi bác đại hề, 
Khởi duy thị kỳ hữu nữ? 
Viết: miễn viễn thệ nhi vô hồ nghi hề, 
Thục cầu mỹ nhi thích nhữ? 
Hà sở độc vô phương thảo hề, 
Nhĩ hà hoài hồ cố vũ. 
Thế u muội, dĩ huyễn diệu hề, 
Thục vân sát dư chi thiện ác? 
Dân hiếu ố kỳ bất đồng hề, 
Duy thử đảng nhân kỳ độc dị. 
Hộ phục ngải dĩ doanh yêu hề, 
Vị u lan kỳ bất khả bội. 
Lâm sát thảo mộc kỳ do vị đắc hề, 
Khởi trình mỹ chi năng đương. 
Tổ phần nhưỡng dĩ sung vi hề, 
Vị thân tiêu kỳ bất phương. 
Dục tòng Linh phân chi cát chiêm hề, 
Tâm do dự nhi hồ nghi. 
Vu Hàm tương tịch giáng hề, 
Hoài tiêu sở nhi yêu chi. 
Bách thần ế kỳ bị giáng hề, 
Cửu nghi bân kỳ tịnh nghênh. 
Hoàng diễm diễm kỳ dương linh hề, 
Cáo dư dĩ cát cố. 
Viết: Miễn thăng giáng nhi thượng hạ hề, 
Cầu củ hoạch chi sở đồng. 
Thang Vũ nghiêm nhi cầu hợp hề, 
Chí Cao Dao nhi năng điều. 
Cẩu trung tình kỳ hiếu tu hề, 
Hựu hà tất dụng phù hành môi ? 
Duyệt thao trúc ư Phó Nham hề, 
Vũ Ðinh dụng nhi bất nghi. 
Lã Vọng chi cổ đao hề, 
Tao Chu Văn nhi đắc cử. 
Ninh Thích chi âu ca hề, 
Tề Hoàn văn dĩ cai phụ. 
Cập niên tuế chi vị án hề, 
Thì diệc do kỳ vị ương. 
Khủng đề quyết chi tiên minh hề, 
Sử phù bách thảo vị chi bất phương. 
Hà quỳnh hội chi yển kiển hề, 
Chúng ái nhiên nhi tế chi. 
Duy thủ đảng nhân chi bất lượng hề, 
Khủng tật đố nhi chiết chi. 
Thì bân phân kỳ biến dịch hề, 
Hựu hà khả dĩ yêm lưu. 
Lan chỉ biến nhi bất phương hề, 
Thuyên huệ hoá nhi vi mao. 
Hà tích nhật chi phương thảo hề, 
Kim trực vi thử tiêu ngải dã. 
Khởi kỳ hữu tha cố hề, 
Mạc hiếu tu chi hại dã. 
Dự ký dĩ lan vi khả thị hề, 
Khương vô thực nhi dung trường. 
Uỷ quyết mỹ dĩ tòng tục hề, 
Cẩu đắc liệt hồ chúng phương. 
Tiêu chuyên nịnh dĩ mạn thao hề, 
Sát hựu dục sung phù bội vi. 
Ký can tiến nhi vụ nhập hề, 
Hựu hà phương chi năng chi. 
Cố thì tục chi lưu tòng hề, 
Hựu thục năng vô biến hoá? 
Lãm tiêu lan kỳ nhược tư hề, 
Hựu huống yết xa dữ giang ly. 
Duy tư bội chi khả quý hề, 
Uỷ quyết mỹ nhi lịch ti tư. 
Phương phi phi nhi nan khuy hề, 
Phân chí kim do vị muội. 
Hoà điệu độ dĩ tự ngu hề, 
Liêu phù du nhi cầu nữ. 
Cập dư sức chi phương tráng hề, 
Chu lưu quan hồ thượng hạ. 
Linh phân kỳ cáo dư dĩ cát chiêm hề, 
Lịch cát nhật hồ ngô tương hàng. 
Chiết quỳnh chi dĩ vi tu hề, 
Tinh quỳnh my dĩ vi tương. 
Vị dư giá phi long hề, 
Tạp dao tượng dĩ vi xa. 
Hà ly tâm chi khả đồng hề, 
Ngô tương viễn thệ dĩ tự sơ. 
Triển ngô đạo phù Côn-luân hề, 
Lộ tu viễn dĩ chu lưu. 
Dương vân nghê chi yếm ái hề, 
Minh ngọc loan chi thu thu. 
Triêu phát nhẫn ư Thiên tân hề, 
Tịch dư chí hồ Tây cực. 
Phượng hoàng dực kỳ thừa kỳ hề, 
Cao cao tường chi dực dực. 
Hốt ngô hành thử Lưu sa hề, 
Tuân Xích thuỷ nhi dung dữ. 
Huy giao long sử lương tân hề, 
Chiếu Tây hoàng sứ thiệp dư. 
Lộ tu viễn dĩ đa gian hề, 
Ðằng chúng xa sử kim đãi. 
Lộ Bất Chu dĩ tả chuyên hề, 
Chí Tây hải dĩ vi kỳ. 
Ðồn dư xa kỳ thiên thặng hề, 
Tề ngọc đại nhi tịnh trì. 
Giá bát long chi uyển uyển hề, 
Tái vân kỳ chi uỷ đà. 
Úc chí nhi nhĩ tiết hề, 
Thần cao trì nhi mạc mạc. 
Tấu Cửu ca nhi vũ thiều hề, 
Liêu hạ nhật dĩ du lạc. 
Trắc thăng hoàng chi hách hí hề, 
Hốt lâm nghễ phù cựu hương. 
Bộc phu bi dư mã hoài hề, 
Quyền cục cố nhi bất hàng. 
(Loạn viết) Dĩ hỹ tai! 
Quốc vô nhân mạc ngã tri hề, 
Hựu hà hoài hồ cố đô. 
Kỳ mạc túc dĩ vi mỹ chính hề, 
Ngô tương tòng Bành Hàm chi sở cư.

Nỗi sầu ly biệt
 

(Bản dịch của Nhượng Tống)
 
Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ,
Vốn dòng vua về họ Cao Dương.
Tháng giêng đầu tiết xuân sang,
Cõi đời ta xuống giữa đương ngày Dần.
Buổi trứng nước ân cần chăm sóc,
Biết bao nhiêu khó nhọc công cha.
Chữ hay kén đặt cho ta:
Tên là Chính Tắc, tự là Linh Quân.
Trong ta đã mười phần lộng lẫy,
Chải chuốt càng thêm nẩy xinh tươi.
Sói ngàn nhài bãi khoác ngoài,
Tết lan thu lại làm đai đeo thường.
Sợ chẳng kịp ta càng mê mải,
Tuổi xanh nào có đợi gì ai.
Mộc lan sớm cắt trên đồi,
Ðông thanh chiều hái bên ngoài bến sông.
Ngày tháng vút đi không trở lại,
Vừa xuân qua đã lại thu sang.
Ðoái trông cỏ áy cây vàng,
Sợ con người đẹp muộn màng lỡ duyên!
Tuổi đang trẻ nết quen càn rỡ,
Thế mà không đổi sửa cho đành.
Ngựa hay cưỡi lấy, đi nhanh,
Lại đây ta chỉ cho mình đường quang.
Ðời ba vua thuở đang rực rỡ,
Các giống thơm hớn hở đua tươi.
Hoa tiêu, hoa quế lộn mùi,
Cứ gì hoa huệ được người yêu đương.
Theo đạo chính nhằm đường ngay thẳng,
Nghiêu Thuấn xưa thiệt đấng minh quân.
Cớ sao Kiệt Trụ ngu đần,
Ðâm đầu lối tắt sa chân đường cùng.
Hám vui bọn chúng không biết sợ,
Ðường tối tăm hiểm trở xiết bao.
Xe loan e lúc đổ nhào,
Phải rằng ta sợ thiệt vào đến thân!
Cố theo kịp gót chân vua trước,
Quản chi công xuôi ngược long đong.
Tình ta mình chẳng xét cùng,
Nghe lời ton hót đem lòng giận ta!
Nói thẳng vẫn biết là có hại,
Biết vậy mà nín mãi không đành!
Chín lần trời hãy chứng minh,
Chỉ vì ta quá yêu mình đấy thôi!
Trước cùng ta nặng lời hẹn ước,
Sau vì đâu đổi khác đơn sai?
Biệt ly ta chẳng quản nài,
Xót mình lòng dạ đổi dời bao phen.
Chín vườn lan lại nghìn sào huệ,
Một mình ta chăm chỉ hôm mai.
Tử tiêu bạch chỉ xen vai,
Kẹ trong đỗ nhược, bao ngoài tân di.
Mong cành lá có khi đua nẩy,
Chờ đến mùa hái lấy hoa tươi.
Bỏ rơi ta thiết chi đời,
Thấy trăm hoa chịu lạc loài mà thương!
Chúng chen chúc trên đường vụ lợi,
Tấm lòng tham, tham mãi tham hoài!
Ðem dạ mình đọ bụng người,
Sinh lòng ghen ghét, đặt lời gièm pha.
Mồi phú quý cố mà đeo đuổi,
Phải lòng ta có vội thế đâu.
Cái già sồng sộc theo nhau,
E không để được về sau tiếng lành.
Ăn hoa rụng bên nhành thu cúc,
Uống sương sa dưới gốc mộc lan.
Tình yêu khôn đẹp muôn vàn,
Khát hoài! đói mãi! phàn nàn mà chi!
Rút rễ cây ta xe sợi chỉ,
Xâu cánh hoa thiên lý xinh xinh.
Cánh lan cánh huệ trắng tinh,
Giây ngần bền dẻo tết manh áo ngoài.
Áo như thế thói đời chẳng mặc,
Ta cứ theo phép tắc người xưa.
Dẫu rằng đời có chẳng ưa,
Thì xin theo lối cũng như Bành, Hàm.
Ðời người khổ kể làm sao xiết!
Ðành than dài gạt vết lệ hoen.
Làm xinh ta khéo vô duyên,
Sớm vừa can gián chiều liền sa cơ.
Sa cơ mặc nhởn nhơ vẫn thế,
Vẫn đeo lan dắt huệ như xưa.
Lòng ta đã thích đã ưa,
Dẫu rằng chín chết có chừa được đâu.
Trách mình chẳng suy sau xét trước,
Mãi mãi không rõ được thói đời.
Chúng ghen ta có mày ngài,
Phao cho ta tiếng con người lẳng lơ.
Người đời thật đã thừa khôn khéo,
Ðua nhau theo mức vẹo thước cong.
Khuôn vuông mẫu thẳng chẳng dùng,
Cúi luồn cầu cạnh một dòng như nhau!
Một mình chịu nuốt sầu ngậm tủi,
Nói ai hay nông nỗi lúc này?
Thà cho sống đọa thác đày,
Lòng ta không nỡ để lây thói thường!
Loài chim cắt ngang tàng bay bổng,
Vốn xưa nay là giống không đàn.
Vuông tròn vốn chẳng cùng làn,
Khúc đường ai để yên hàn cho ai?
Tránh điều lỗi, mặc đời xoi mói!
Nén chí xưa, cam nỗi xót xa.
Thánh hiền xưa cũng như ta,
Thẳng ngay mà chết, ấy là chết trong!
Tiếc nhận lối mà không biết lối,
Liệu về thôi, ở lại chi lâu?
Lạc đường cũng chửa xa đâu,
Quay xe trở lại cho mau còn vừa.
Giục vó ngựa lên bờ lan dã,
Sang gò tiêu thong thả nghỉ ngơi.
Tiến ra chẳng hợp với đời,
Lui về sửa lại mặc ngoài cho xinh.
Hái sen súng, cắt manh áo đẹp,
Cắt phù dung may nếp xiêm dài.
Ðời không biết đến mặc đời,
Tình ta vẫn hẳn vẹn mười thơm tho.
Mũ ta đội xốc cho cao ngất,
Ðai ta đeo buông thật dịu dàng.
Khắp mình thơm nức sáng choang,
Ðẹp còn giữ được chất thường chưa phai.
Chợt quay lại liếc chơi, ta muốn
Ði xem cho khắp bốn cõi hoang.
Rung rinh bao thú điểm trang
Ngọt ngào càng thấy rõ ràng mùi thơm.
Ðời ai cũng riêng ham từng món,
Như ta đây chỉ muốn làm xinh.
Phân thây xé xác cũng đành,
Lòng này hồ dễ dỗ dành được sao?
Tiếng cô chị bước vào léo xéo,
Mắng ta rằng rõ khéo ngẩn ngơ,
"Bướng như chàng Cổn ngày xưa,
Bỏ mình núi Vũ bây giờ ai thương?
Sao em thích khoe khoang chải chuốt,
Riêng một mình giữ một vẻ xinh?
Ðầy nhà dây dợ, cỏ tranh,
Người ta mặc cả sao mình lại không?
Nói với chúng dễ hòng nói xiết!
Ai là người xét biết lòng ta?
Ðời đều bè đảng gian tà,
Một mình ta nói, nói mà ai nghe?"
Trong đạo thành liệu bề theo dõi,
Ðến chi đây xiết nỗi tân toan.
Sang Nam qua ngọn Tương Ngoan,
Tới đền vua Thuấn, ta than vài lời:
"Mê hát xướng kìa đời nhà Hạ,
Vua Thái Khang thỏa dạ vui chơi,
Chẳng lo chẳng nghĩ lâu dài,
Năm con mới phải lạc loài bốn phương.
Vua Nghệ chỉ ham đường săn bắn,
Say chim muông quên hẳn việc thường.
Tham vui vua Xác hoang toàng,
Cả hai đều phải thịt xương tan tành!
Ðến vua Ngáo cậy mình sức khỏe,
Chẳng giữ gìn chỉ phí ăn chơi.
Quên mình ngày tháng giông dài,
Quá ra khi đã để rơi cả đầu.
Hạ Kiệt có biết đâu đạo cả,
Lần lữa trông tai vạ đến nơi.
Vua Tân ướp món thịt người,
Cũng vì thế mới hết đời nhà Thương!
Lại xét đến Vũ, Thang, Văn, Võ
Kính mà nghiêm chẳng bỏ đạo hằng.
Cất dùng toàn bọn tài năng,
Theo khuôn giữ mực thẳng băng một chiều.
Ông trời chẳng riêng yêu ai hết,
Xem thấy ai đức nết thì nên.
Xưa nay chỉ bậc thánh hiền,
Thương dân mới được cầm quyền trị dân.
Trông sau trước xét lần sự thế,
Hãy để tâm suy nghĩ cho cùng.
Làm đâu được việc bất công!
Những phường bất nghĩa có dùng được đâu.
Lòng này nghĩ trước sau như một,
Dẫu chết ngay chẳng chút nôn nao.
Người xưa oan thác biết bao,
Theo vuông lựa có vào sao lỗ tròn.
Nức nở khóc cho buồn đầy dạ,
Tủi cho thân sinh đã lỗi thời!
Gạt sầu bứt cánh huệ tươi,
Áo khăn lã chã lệ rơi ướt đầm!
Quỳ khép áo lầm rầm khấn vái:
"Xin dốc theo lẽ phải đường ngay!"
Quay ra đạp gió rẽ mây,
Cưỡi rồng gióng phượng định ngày chơi xa.
Sớm Thương-Ngô, chiều qua Huyền Phố,
Ðến thần linh xa ngó cõi ngoài.
Chốn này muốn tạm nghỉ ngơi,
Chiều hôm bảng lảng mặt trời xuống nhanh.
"Hy Hòa hỡi nể tình ta với!
Lối non đoài chớ vội xông pha.
Quản bao nước thẳm non xa,
Ðể ta tìm kiếm cho ra bạn lòng!"
Cho ngựa uống bên đồng Dục Nhật,
Buông dây cương ở đất Phù Tang.
Nhởn nhơ chốc lát dọc đường,
Bẻ cành nhược mộc chăng ngang mặt trời.
Chị trăng phải nhanh chân tiến trước,
Dì gió cho lần bước theo sau.
Chim loan mở lối đi đầu,
Nhưng thầm sấm sét dốc hầu chưa xong!
Ta giục phượng gia công bay mãi,
Suốt ngày đêm rong ruổi cho mau.
Cơn giông bão táp theo hầu,
Cầu vồng mống cụt đem nhau đến chào.
Khắp các ngã trước sau tới tấp,
Ðủ mọi mầu trên dưới tơi bời...
Ta truyền mở cửa nhà trời!
Lính canh lại tựa cửa ngoài nhìn ta.
Người mỏi mệt trời đà sẩm tối,
Ðứng bơ phờ tay với bông lan.
Cõi đời nhơ đục muôn vàn,
Ghét tài, ghét đẹp, thói càn đã quen.
Sớm dóng ngựa qua miền Bạch Thủy,
Lên Lãng Phong ta sẽ dừng cương.
Không ai là gái đảm đang,
Trông về nước Sở gạt hàng lệ rơi.
Chơi cung Xuân này nơi thanh nhã,
Ðeo dắt thêm hai đóa hoa quỳnh.
Hoa tươi còn chửa lìa cành,
Xem ai là gái hữu tình ta đưa.
Sai thần mây đi mưa về gió,
Cung Phục Phi tìm rõ tới nơi.
Mối may ta lại cậy người,
Cởi dây đeo để ngỏ lời giao đoan.
Trải mấy độ qua ngàn vượt núi,
Bỗng dọc ngang đường lối khó thông.
Chiều hôm về nghỉ non Cùng,
Sớm ra gội tóc trên sông Vị Bàn.
Nàng cậy đẹp khinh nhờn quen thói,
Quên tháng ngày, mê mải dong chơi.
Ðẹp nhưng mất nết xin thôi,
Bỏ tìm chốn khác lấy người đoan trang.
Vùng trời rộng bốn phương man mác,
Xem khắp rồi lại bước xuống đời.
Hữu nhung trông với cõi ngoài,
Long lanh đền ngọc thấy người gái xinh.
Mượn chim trấm mối manh nói hộ,
Trấm trả lời: "Việc đó không xuôi!"
Kìa chim tu hú dại đời,
Ta còn ghét nó là loài tinh ranh.
Mình khuây khỏa lấy mình chẳng nối,
Lòng hồ nghi trăm mối vấn vương.
Chịu lời ta đã phượng hoàng,
Chỉ e ta đến sau chàng Cao Tân.
Xa tìm chốn yên thân chẳng có,
Ðành lênh đênh đây đó biết sao!
Thiếu Khang đang lúc ba đào,
Họ Kiều hai gái sánh vào vừa xinh.
Lý đã kém mối manh lại vụng,
Chỗ hẹn lời e cũng không bền.
Người đời bẩn tưởi nhỏ nhen,
Chuộng bên gian ác, ghét bên hiền tài.
Buồng the đã là nơi cách trở,
Nhà vua còn đang cữ mê say.
Ôm lòng biết ngỏ ai hay,
Bước đời nhịn mãi nước này được sao.
Chẻ nắm quẻ Quỳnh-mao làm thẻ
Mượn Linh-phân gieo quẻ nhân duyên.
Quẻ rằng: "Ao ước thì nên,
Bên tài bên sắc đôi bên cùng lòng.
Nghĩ chín cõi mênh mông rộng rãi,
Phải riêng đây có gái kén chồng?
Ðường xa xin chớ ngại ngùng,
Người xinh ai chẳng đem lòng khát khao?
Cỏ thơm kể nơi nào chẳng có,
Thương tiếc chi quê cũ nữa anh!
Quáng lòa bao kẻ chung quanh,
Dở hay ai xét cho mình nữa đâu!
Lòng yêu ghét khác nhau biết mấy!
Bọn chúng coi thật thấy lạ đời.
Cỏ hôi đeo dắt đầy người,
Hoa lan thơm ngát chê bai chẳng dùng.
Loài cây cỏ còn không phân biệt,
Giống ngọc lành xét biết đâu mà!
Phân tro xếp đống đầy nhà,
Cánh hồi cánh quế chê là không thơm"
Quẻ dạy thế, ở làm chi nữa!
Nhưng lòng còn lưỡng lự chưa đi.
Chiều nay sắp đặt lễ nghi,
Mời Vu Hàm lại ta thì hỏi han.
Chín dãy núi chập chờn đón rước,
Trăm vị thần chững chạc tới nơi.
Hào quang rực rỡ đầy trời,
Vì ta dạy hết mọi lời thủy chung.
Rằng: "Lên xuống cố công tìm hỏi,
Ai cùng mình khuôn lối như in.
Vũ, Thang kén lựa tôi hiền,
Chí Cao Dao được chúng tin yêu vì.
Quả là đẹp cứ gì tốt mối!
Giá ngọc lành há phải bán rong!
Duyệt xưa đắp đất ngoài đồng,
Vũ Ðinh tìm gặp tin dùng chẳng nghi.
Lã Vọng trước làm nghề bán thịt,
Gặp Văn Vương mới biết tướng tài.
Chăn trâu Ninh Thích hát chơi,
Tề Hoàn nghe đã cho vời làm quan.
Tuổi chưa muộn lo toan còn kịp,
Thời đang vừa thu xếp đi cho!
Véo von đề quyết gọi thu,
Trăng hoa e lúc thơm tho chẳng còn!
Vòng hoa quỳnh đẹp giòn biết mấy,
Che lấp đi ai biết vẻ xinh!
Ghét ghen chúng chẳng thương tình,
E khi giập gãy tan tành biết đâu."
Trách thời tiết thật mau thay đổi,
Nào lữa lần được mãi cho cam.
Hoa lan giờ đã hết thơm,
Hoa lài hoa huệ hóa làm cỏ tranh...
Bao nhiêu giống hương thanh sắc đẹp,
Ðều dốc đời đổi kiếp hôi tanh.
Không năng chải chuốt làm xinh,
Tại ai đâu, chỉ tại mình đấy thôi.
Lan ta tưởng đáng nơi tin cậy,
Có ngờ đâu bóng bẩy mà hư.
Theo đời bỏ vẻ đẹp xưa,
Ðua đòi cẩu thả cũng như mọi loài.
Tiêu bợ đỡ nịnh đời ra mặt,
Túi thuốc trừ nhét chặt thù du.
Ðem thân cầu cạnh bôn xu,
Còn đâu giữ được thơm tho tính trời.
Thói thường vốn theo thời thay đổi,
Ai giữ mình cho khỏi suy di!
Tiêu Lan còn chả ra gì,
Trách chi đến sói, kể chi đến nhài!
Riêng hoa quỳnh thật loài đáng quý,
Tới nay còn giữ vẻ năm xưa.
Hương còn thoang thoảng xa đưa,
Ðẹp còn nguyên vẹn vẫn như ngày nào.
Tự an ủi, theo vào mực thước,
Ngắm hoa đeo ngày trước còn xinh.
Khắp vùng trời đất mông mênh,
Tìm cho thấy bạn hữu tình mới thôi.
Linh phân dạy: "Quẻ coi tốt lắm!"
Chọn ngày lành ta sắm sửa đi.
Hoa quỳnh bẻ lấy phòng khi,
Cành thì làm bánh, cánh thì làm cơm.
Lộn ngà ngọc đóng làm xe cưỡi,
Kéo xe ta phất phới rồng bay.
Ði cho vắng mặt khuất mày,
Lòng lìa, thế bắt thân này phải xa!
Ðường thăm thẳm trông ra quanh quất
Hãy vòng xe qua đất Côn Luân.
Vang vang nhạc ngọc thét dồn,
Mây màu lấp lánh vây tròn trước sau.
Sớm bên trời bắt đầu rong ruổi,
Chiều hôm ta tới cõi cực tây.
Trước xe đón ngựa cờ bay,
Phượng hoàng vỗ cánh tung mây tuyệt vời.
Chốc ta lại qua chơi bể Cát,
Theo dòng sông bát ngát đỏ ngầu.
Thuồng thuồng sửa bến cho mau!
Bảo Tây hoàng phải bắc cầu ta sang.
Xa thăm thẳm cõi đường hiểm trở,
Dồn các xe giúp đỡ ta cùng.
Bất Chu lối tả đi vòng,
Hẹn ngày tháng chỉ qua vùng biển tây.
Ðều tay sắp giật dây cương ngọc,
Nghìn xe cùng một lúc ra đi.
Tám rồng bay lộn trước xe,
Cờ bay phất phới bóng che rợp trời.
Hãy ngừng bước, tạm nguôi dạ tủi,
Buông thần hồn lên cõi cao xa.
Múa Thiều hát khúc Cửu ca,
Tháng ngày thong thả liệu mà làm khuây.
Cất mình khoảng trời mây rộng rãi,
Chợt ngoảnh đầu trông lại quê hương.
Ngựa buồn, đầy tớ thảm thương,
Co ro nhớn nhác, ngại đường chẳng đi.
Vãn rằng:
Thôi than tiếc làm chi cho cực!
Biết ta đâu một nước không người.
Chính lành làm sức với ai,
Bành Hàm đâu đó ta thời đi theo. 
(hết)
        Thơ KHUẤT NGUYÊN
         Nỗi sầu ly biệt

Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ,
Vốn dòng vua về họ Cao Dương.
Tháng giêng đầu tiết xuân sang,
Cõi đời ta xuống giữa đương ngày Dần.
Buổi trứng nước ân cần chăm sóc,
Biết bao nhiêu khó nhọc công cha.
Chữ hay kén đặt cho ta:
Tên là Chính Tắc, tự là Linh Quân.
Trong ta đã mười phần lộng lẫy,
Chải chuốt càng thêm nẩy xinh tươi.
Sói ngàn nhài bãi khoác ngoài,
Tết lan thu lại làm đai đeo thường.
Sợ chẳng kịp ta càng mê mải,
Tuổi xanh nào có đợi gì ai.
Mộc lan sớm cắt trên đồi,
Ðông thanh chiều hái bên ngoài bến sông.
Ngày tháng vút đi không trở lại,
Vừa xuân qua đã lại thu sang.
Ðoái trông cỏ áy cây vàng,
Sợ con người đẹp muộn màng lỡ duyên!
Tuổi đang trẻ nết quen càn rỡ,
Thế mà không đổi sửa cho đành.
Ngựa hay cưỡi lấy, đi nhanh,
Lại đây ta chỉ cho mình đường quang.
Ðời ba vua thuở đang rực rỡ,
Các giống thơm hớn hở đua tươi.
Hoa tiêu, hoa quế lộn mùi,
Cứ gì hoa huệ được người yêu đương.
Theo đạo chính nhằm đường ngay thẳng,
Nghiêu Thuấn xưa thiệt đấng minh quân.
Cớ sao Kiệt Trụ ngu đần,
Ðâm đầu lối tắt sa chân đường cùng.
Hám vui bọn chúng không biết sợ,
Ðường tối tăm hiểm trở xiết bao.
Xe loan e lúc đổ nhào,
Phải rằng ta sợ thiệt vào đến thân!
Cố theo kịp gót chân vua trước,
Quản chi công xuôi ngược long đong.
Tình ta mình chẳng xét cùng,
Nghe lời ton hót đem lòng giận ta!
Nói thẳng vẫn biết là có hại,
Biết vậy mà nín mãi không đành!
Chín lần trời hãy chứng minh,
Chỉ vì ta quá yêu mình đấy thôi!
Trước cùng ta nặng lời hẹn ước,
Sau vì đâu đổi khác đơn sai?
Biệt ly ta chẳng quản nài,
Xót mình lòng dạ đổi dời bao phen.
Chín vườn lan lại nghìn sào huệ,
Một mình ta chăm chỉ hôm mai.
Tử tiêu bạch chỉ xen vai,
Kẹ trong đỗ nhược, bao ngoài tân di.
Mong cành lá có khi đua nẩy,
Chờ đến mùa hái lấy hoa tươi.
Bỏ rơi ta thiết chi đời,
Thấy trăm hoa chịu lạc loài mà thương!
Chúng chen chúc trên đường vụ lợi,
Tấm lòng tham, tham mãi tham hoài!
Ðem dạ mình đọ bụng người,
Sinh lòng ghen ghét, đặt lời gièm pha.
Mồi phú quý cố mà đeo đuổi,
Phải lòng ta có vội thế đâu.
Cái già sồng sộc theo nhau,
E không để được về sau tiếng lành.
Ăn hoa rụng bên nhành thu cúc,
Uống sương sa dưới gốc mộc lan.
Tình yêu khôn đẹp muôn vàn,
Khát hoài! đói mãi! phàn nàn mà chi!
Rút rễ cây ta xe sợi chỉ,
Xâu cánh hoa thiên lý xinh xinh.
Cánh lan cánh huệ trắng tinh,
Giây ngần bền dẻo tết manh áo ngoài.
Áo như thế thói đời chẳng mặc,
Ta cứ theo phép tắc người xưa.
Dẫu rằng đời có chẳng ưa,
Thì xin theo lối cũng như Bành, Hàm.
Ðời người khổ kể làm sao xiết!
Ðành than dài gạt vết lệ hoen.
Làm xinh ta khéo vô duyên,
Sớm vừa can gián chiều liền sa cơ.
Sa cơ mặc nhởn nhơ vẫn thế,
Vẫn đeo lan dắt huệ như xưa.
Lòng ta đã thích đã ưa,
Dẫu rằng chín chết có chừa được đâu.
Trách mình chẳng suy sau xét trước,
Mãi mãi không rõ được thói đời.
Chúng ghen ta có mày ngài,
Phao cho ta tiếng con người lẳng lơ.
Người đời thật đã thừa khôn khéo,
Ðua nhau theo mức vẹo thước cong.
Khuôn vuông mẫu thẳng chẳng dùng,
Cúi luồn cầu cạnh một dòng như nhau!
Một mình chịu nuốt sầu ngậm tủi,
Nói ai hay nông nỗi lúc này?
Thà cho sống đọa thác đày,
Lòng ta không nỡ để lây thói thường!
Loài chim cắt ngang tàng bay bổng,
Vốn xưa nay là giống không đàn.
Vuông tròn vốn chẳng cùng làn,
Khúc đường ai để yên hàn cho ai?
Tránh điều lỗi, mặc đời xoi mói!
Nén chí xưa, cam nỗi xót xa.
Thánh hiền xưa cũng như ta,
Thẳng ngay mà chết, ấy là chết trong!
Tiếc nhận lối mà không biết lối,
Liệu về thôi, ở lại chi lâu?
Lạc đường cũng chửa xa đâu,
Quay xe trở lại cho mau còn vừa.
Giục vó ngựa lên bờ lan dã,
Sang gò tiêu thong thả nghỉ ngơi.
Tiến ra chẳng hợp với đời,
Lui về sửa lại mặc ngoài cho xinh.
Hái sen súng, cắt manh áo đẹp,
Cắt phù dung may nếp xiêm dài.
Ðời không biết đến mặc đời,
Tình ta vẫn hẳn vẹn mười thơm tho.
Mũ ta đội xốc cho cao ngất,
Ðai ta đeo buông thật dịu dàng.
Khắp mình thơm nức sáng choang,
Ðẹp còn giữ được chất thường chưa phai.
Chợt quay lại liếc chơi, ta muốn
Ði xem cho khắp bốn cõi hoang.
Rung rinh bao thú điểm trang
Ngọt ngào càng thấy rõ ràng mùi thơm.
Ðời ai cũng riêng ham từng món,
Như ta đây chỉ muốn làm xinh.
Phân thây xé xác cũng đành,
Lòng này hồ dễ dỗ dành được sao?
Tiếng cô chị bước vào léo xéo,
Mắng ta rằng rõ khéo ngẩn ngơ,
"Bướng như chàng Cổn ngày xưa,
Bỏ mình núi Vũ bây giờ ai thương?
Sao em thích khoe khoang chải chuốt,
Riêng một mình giữ một vẻ xinh?
Ðầy nhà dây dợ, cỏ tranh,
Người ta mặc cả sao mình lại không?
Nói với chúng dễ hòng nói xiết!
Ai là người xét biết lòng ta?
Ðời đều bè đảng gian tà,
Một mình ta nói, nói mà ai nghe?"
Trong đạo thành liệu bề theo dõi,
Ðến chi đây xiết nỗi tân toan.
Sang Nam qua ngọn Tương Ngoan,
Tới đền vua Thuấn, ta than vài lời:
"Mê hát xướng kìa đời nhà Hạ,
Vua Thái Khang thỏa dạ vui chơi,
Chẳng lo chẳng nghĩ lâu dài,
Năm con mới phải lạc loài bốn phương.
Vua Nghệ chỉ ham đường săn bắn,
Say chim muông quên hẳn việc thường.
Tham vui vua Xác hoang toàng,
Cả hai đều phải thịt xương tan tành!
Ðến vua Ngáo cậy mình sức khỏe,
Chẳng giữ gìn chỉ phí ăn chơi.
Quên mình ngày tháng giông dài,
Quá ra khi đã để rơi cả đầu.
Hạ Kiệt có biết đâu đạo cả,
Lần lữa trông tai vạ đến nơi.
Vua Tân ướp món thịt người,
Cũng vì thế mới hết đời nhà Thương!
Lại xét đến Vũ, Thang, Văn, Võ
Kính mà nghiêm chẳng bỏ đạo hằng.
Cất dùng toàn bọn tài năng,
Theo khuôn giữ mực thẳng băng một chiều.
Ông trời chẳng riêng yêu ai hết,
Xem thấy ai đức nết thì nên.
Xưa nay chỉ bậc thánh hiền,
Thương dân mới được cầm quyền trị dân.
Trông sau trước xét lần sự thế,
Hãy để tâm suy nghĩ cho cùng.
Làm đâu được việc bất công!
Những phường bất nghĩa có dùng được đâu.
Lòng này nghĩ trước sau như một,
Dẫu chết ngay chẳng chút nôn nao.
Người xưa oan thác biết bao,
Theo vuông lựa có vào sao lỗ tròn.
Nức nở khóc cho buồn đầy dạ,
Tủi cho thân sinh đã lỗi thời!
Gạt sầu bứt cánh huệ tươi,
Áo khăn lã chã lệ rơi ướt đầm!
Quỳ khép áo lầm rầm khấn vái:
"Xin dốc theo lẽ phải đường ngay!"
Quay ra đạp gió rẽ mây,
Cưỡi rồng gióng phượng định ngày chơi xa.
Sớm Thương-Ngô, chiều qua Huyền Phố,
Ðến thần linh xa ngó cõi ngoài.
Chốn này muốn tạm nghỉ ngơi,
Chiều hôm bảng lảng mặt trời xuống nhanh.
"Hy Hòa hỡi nể tình ta với!
Lối non đoài chớ vội xông pha.
Quản bao nước thẳm non xa,
Ðể ta tìm kiếm cho ra bạn lòng!"
Cho ngựa uống bên đồng Dục Nhật,
Buông dây cương ở đất Phù Tang.
Nhởn nhơ chốc lát dọc đường,
Bẻ cành nhược mộc chăng ngang mặt trời.
Chị trăng phải nhanh chân tiến trước,
Dì gió cho lần bước theo sau.
Chim loan mở lối đi đầu,
Nhưng thầm sấm sét dốc hầu chưa xong!
Ta giục phượng gia công bay mãi,
Suốt ngày đêm rong ruổi cho mau.
Cơn giông bão táp theo hầu,
Cầu vồng mống cụt đem nhau đến chào.
Khắp các ngã trước sau tới tấp,
Ðủ mọi mầu trên dưới tơi bời...
Ta truyền mở cửa nhà trời!
Lính canh lại tựa cửa ngoài nhìn ta.
Người mỏi mệt trời đà sẩm tối,
Ðứng bơ phờ tay với bông lan.
Cõi đời nhơ đục muôn vàn,
Ghét tài, ghét đẹp, thói càn đã quen.
Sớm dóng ngựa qua miền Bạch Thủy,
Lên Lãng Phong ta sẽ dừng cương.
Không ai là gái đảm đang,
Trông về nước Sở gạt hàng lệ rơi.
Chơi cung Xuân này nơi thanh nhã,
Ðeo dắt thêm hai đóa hoa quỳnh.
Hoa tươi còn chửa lìa cành,
Xem ai là gái hữu tình ta đưa.
Sai thần mây đi mưa về gió,
Cung Phục Phi tìm rõ tới nơi.
Mối may ta lại cậy người,
Cởi dây đeo để ngỏ lời giao đoan.
Trải mấy độ qua ngàn vượt núi,
Bỗng dọc ngang đường lối khó thông.
Chiều hôm về nghỉ non Cùng,
Sớm ra gội tóc trên sông Vị Bàn.
Nàng cậy đẹp khinh nhờn quen thói,
Quên tháng ngày, mê mải dong chơi.
Ðẹp nhưng mất nết xin thôi,
Bỏ tìm chốn khác lấy người đoan trang.
Vùng trời rộng bốn phương man mác,
Xem khắp rồi lại bước xuống đời.
Hữu nhung trông với cõi ngoài,
Long lanh đền ngọc thấy người gái xinh.
Mượn chim trấm mối manh nói hộ,
Trấm trả lời: "Việc đó không xuôi!"
Kìa chim tu hú dại đời,
Ta còn ghét nó là loài tinh ranh.
Mình khuây khỏa lấy mình chẳng nối,
Lòng hồ nghi trăm mối vấn vương.
Chịu lời ta đã phượng hoàng,
Chỉ e ta đến sau chàng Cao Tân.
Xa tìm chốn yên thân chẳng có,
Ðành lênh đênh đây đó biết sao!
Thiếu Khang đang lúc ba đào,
Họ Kiều hai gái sánh vào vừa xinh.
Lý đã kém mối manh lại vụng,
Chỗ hẹn lời e cũng không bền.
Người đời bẩn tưởi nhỏ nhen,
Chuộng bên gian ác, ghét bên hiền tài.
Buồng the đã là nơi cách trở,
Nhà vua còn đang cữ mê say.
Ôm lòng biết ngỏ ai hay,
Bước đời nhịn mãi nước này được sao.
Chẻ nắm quẻ Quỳnh-mao làm thẻ
Mượn Linh-phân gieo quẻ nhân duyên.
Quẻ rằng: "Ao ước thì nên,
Bên tài bên sắc đôi bên cùng lòng.
Nghĩ chín cõi mênh mông rộng rãi,
Phải riêng đây có gái kén chồng?
Ðường xa xin chớ ngại ngùng,
Người xinh ai chẳng đem lòng khát khao?
Cỏ thơm kể nơi nào chẳng có,
Thương tiếc chi quê cũ nữa anh!
Quáng lòa bao kẻ chung quanh,
Dở hay ai xét cho mình nữa đâu!
Lòng yêu ghét khác nhau biết mấy!
Bọn chúng coi thật thấy lạ đời.
Cỏ hôi đeo dắt đầy người,
Hoa lan thơm ngát chê bai chẳng dùng.
Loài cây cỏ còn không phân biệt,
Giống ngọc lành xét biết đâu mà!
Phân tro xếp đống đầy nhà,
Cánh hồi cánh quế chê là không thơm"
Quẻ dạy thế, ở làm chi nữa!
Nhưng lòng còn lưỡng lự chưa đi.
Chiều nay sắp đặt lễ nghi,
Mời Vu Hàm lại ta thì hỏi han.
Chín dãy núi chập chờn đón rước,
Trăm vị thần chững chạc tới nơi.
Hào quang rực rỡ đầy trời,
Vì ta dạy hết mọi lời thủy chung.
Rằng: "Lên xuống cố công tìm hỏi,
Ai cùng mình khuôn lối như in.
Vũ, Thang kén lựa tôi hiền,
Chí Cao Dao được chúng tin yêu vì.
Quả là đẹp cứ gì tốt mối!
Giá ngọc lành há phải bán rong!
Duyệt xưa đắp đất ngoài đồng,
Vũ Ðinh tìm gặp tin dùng chẳng nghi.
Lã Vọng trước làm nghề bán thịt,
Gặp Văn Vương mới biết tướng tài.
Chăn trâu Ninh Thích hát chơi,
Tề Hoàn nghe đã cho vời làm quan.
Tuổi chưa muộn lo toan còn kịp,
Thời đang vừa thu xếp đi cho!
Véo von đề quyết gọi thu,
Trăng hoa e lúc thơm tho chẳng còn!
Vòng hoa quỳnh đẹp giòn biết mấy,
Che lấp đi ai biết vẻ xinh!
Ghét ghen chúng chẳng thương tình,
E khi giập gãy tan tành biết đâu."
Trách thời tiết thật mau thay đổi,
Nào lữa lần được mãi cho cam.
Hoa lan giờ đã hết thơm,
Hoa lài hoa huệ hóa làm cỏ tranh...
Bao nhiêu giống hương thanh sắc đẹp,
Ðều dốc đời đổi kiếp hôi tanh.
Không năng chải chuốt làm xinh,
Tại ai đâu, chỉ tại mình đấy thôi.
Lan ta tưởng đáng nơi tin cậy,
Có ngờ đâu bóng bẩy mà hư.
Theo đời bỏ vẻ đẹp xưa,
Ðua đòi cẩu thả cũng như mọi loài.
Tiêu bợ đỡ nịnh đời ra mặt,
Túi thuốc trừ nhét chặt thù du.
Ðem thân cầu cạnh bôn xu,
Còn đâu giữ được thơm tho tính trời.
Thói thường vốn theo thời thay đổi,
Ai giữ mình cho khỏi suy di!
Tiêu Lan còn chả ra gì,
Trách chi đến sói, kể chi đến nhài!
Riêng hoa quỳnh thật loài đáng quý,
Tới nay còn giữ vẻ năm xưa.
Hương còn thoang thoảng xa đưa,
Ðẹp còn nguyên vẹn vẫn như ngày nào.
Tự an ủi, theo vào mực thước,
Ngắm hoa đeo ngày trước còn xinh.
Khắp vùng trời đất mông mênh,
Tìm cho thấy bạn hữu tình mới thôi.
Linh phân dạy: "Quẻ coi tốt lắm!"
Chọn ngày lành ta sắm sửa đi.
Hoa quỳnh bẻ lấy phòng khi,
Cành thì làm bánh, cánh thì làm cơm.
Lộn ngà ngọc đóng làm xe cưỡi,
Kéo xe ta phất phới rồng bay.
Ði cho vắng mặt khuất mày,
Lòng lìa, thế bắt thân này phải xa!
Ðường thăm thẳm trông ra quanh quất
Hãy vòng xe qua đất Côn Luân.
Vang vang nhạc ngọc thét dồn,
Mây màu lấp lánh vây tròn trước sau.
Sớm bên trời bắt đầu rong ruổi,
Chiều hôm ta tới cõi cực tây.
Trước xe đón ngựa cờ bay,
Phượng hoàng vỗ cánh tung mây tuyệt vời.
Chốc ta lại qua chơi bể Cát,
Theo dòng sông bát ngát đỏ ngầu.
Thuồng thuồng sửa bến cho mau!
Bảo Tây hoàng phải bắc cầu ta sang.
Xa thăm thẳm cõi đường hiểm trở,
Dồn các xe giúp đỡ ta cùng.
Bất Chu lối tả đi vòng,
Hẹn ngày tháng chỉ qua vùng biển tây.
Ðều tay sắp giật dây cương ngọc,
Nghìn xe cùng một lúc ra đi.
Tám rồng bay lộn trước xe,
Cờ bay phất phới bóng che rợp trời.
Hãy ngừng bước, tạm nguôi dạ tủi,
Buông thần hồn lên cõi cao xa.
Múa Thiều hát khúc Cửu ca,
Tháng ngày thong thả liệu mà làm khuây.
Cất mình khoảng trời mây rộng rãi,
Chợt ngoảnh đầu trông lại quê hương.
Ngựa buồn, đầy tớ thảm thương,
Co ro nhớn nhác, ngại đường chẳng đi.
Vãn rằng:
Thôi than tiếc làm chi cho cực!
Biết ta đâu một nước không người.
Chính lành làm sức với ai,
Bành Hàm đâu đó ta thời đi theo.
  Phụ lục: TẾT ĐOAN NGỌ  
Top of Form
Xem kết quả: / 50 
Bottom of Form
doanngo2
Ngày 28 tháng 5 là Tết Đoan Ngọ, ngày tết truyền thống Trung Quốc. Tết Đoan Ngọ là ngày tết dân gian Trung Quốc rất long trọng, Tết Đoan Ngọ bắt nguồn từ phong tục kỷ niệm nhà thơ yêu nước thời cổ Trung Quốc. Nhiều hoạt động thể hiện phong tục dân gian của Tết Đoan Ngọ như đua thuyền rồng, mang theo túi thơm, ăn bánh chưng v.v. đã trở thành một phần quan trọng trong văn hóa truyền thống Trung Quốc. Hiện nay, Tết Đoan Ngọ đã được Chính phủ Trung Quốc đưa vào ngày nghỉ theo quy định của pháp luật.
Mồng 5 tháng 5 âm lịch của Trung Quốc là Tết Đoan Ngọ, cũng được gọi là Tết Đoan Dương, Tết Ngũ Nguyệt v.v. Được biết, Tết Đoan Ngọ bắt nguồn từ hoạt động kỷ niệm Khuất Nguyên, nhà thơ yêu nước nhảy xuống sông tự tử cách đây hơn 2000 năm. Thời đó, Trung Quốc đang ở vào thời kỳ Chiến quốc nhiều nước chư hầu phân tranh cát cứ. Khuất Nguyên là người nước Sở, nước Sở nằm ở bờ sông Trường Giang miền nam Trung Quốc, lúc đó đang tranh giành địa vị bá chủ với nước Tần nằm ở miền tây bắc Trung Quốc.
Khuất Nguyên là quý tộc nước Sở, chuyên trách bày mưu hiến kế cho vua, nhưng chủ trương của Khuất Nguyên lại vấp phải sự phản đối của những quan lại thuộc phái bảo thủ. Những quan lại đó thường xuyên nói xấu Khuất Nguyên trước mặt vua Sở, khiến Khuất Nguyên không được trọng dụng. Khuất Nguyên ấp ủ hoài bão cứu nước cứu dân, lại bị những kẻ gian thần bài xích, bị vua nghi ngờ. Với căm phẫn không kiềm chế được, Khuất Nguyên đã viết nhiều bài thơ với những áng thơ bất hủ, bày tỏ hoài bão đóng góp cho đất nước của mình.
Sau đó, Khuất Nguyên bị đi đày đến khu vực sông Mịch La tỉnh Hồ Nam hiện nay, người dân địa phương rất kính trọng Khuất Nguyên. Không lâu sau, Khuất Nguyên được biết tin đô thành nước Sở bị quân đội nước Tần đánh chiếm, nước Sở bị tiêu diệt. Khuất Nguyên hết sức căm phẫn, cuối cùng nhảy sông Mịch La tự tử. Hôm đó là mồng 5 tháng 5 năm 278 trước công nguyên.
Sau khi biết tin Khuất Nguyên tự tử, người dân địa phương tới tấp chèo thuyền đi vớt Khuất Nguyên. Người dân không vớt được xác Khuất Nguyên, bèn thả ống tre trong có gạo xuống sông, họ nghĩ rằng làm như vậy cá sẽ không ăn xác Khuất Nguyên; còn có người rót rượu hùng hoàng xuống sông để xua đuổi cá, bảo vệ xác Khuất Nguyên.
     
Từ đó, mỗi khi đến mồng 5 tháng 5 hàng năm, nhằm kỷ niệm Khuất Nguyên, người dân lại chèo thuyền trên sông, thả ống tre trong có gạo xuống sông để tế Khuất Nguyên. Sau đó, lễ tế dần dần có sự thay đổi, người dân dùng lá lau sậy gói gạo nếp thành bánh có hình kim tự tháp, tức là bánh chưng thay thế ống tre trong có gạo. Và hoạt động mọi người chèo thuyền trên sông cũng diễn biến thành cuộc đua thuyền rồng sôi nổi.
doanngo1
Ngoài ra, Tết Đoan Ngọ còn có hàng loạt hoạt động thể hiện phong tục dân gian. Chẳng hạn, người Trung Quốc thời xưa cho rằng, mồng 5 tháng 5, thời tiết dần dần trở lên nóng bức, là thời kỳ các loại sâu bọ như bò cạp, rắn, rết v.v. hoạt động thường xuyên, bệnh truyền nhiễm cũng dần dần tăng lên, cho nên vào Tết Đoan Ngọ phải xua đuổi sâu bọ có độc và tà ma, quét dọn nhà cửa sạch sẽ.
Vì vậy, cứ đến ngày Tết Đoan Ngọ, mọi người quét dọn nhà cửa, treo lá cây ngải cứu và lá cây thạch xương bồ—thực vật có tác dụng xua đổi sâu bọ lên hai bên cánh cửa, vẩy rượu hùng hoàng, uống rượu hùng hoàng, để giết vi khuẩn, phòng chống bệnh truyền nhiễm; những thiếu nữ khéo tay còn thêu và làm túi thơm, bỏ thảo mộc vào túi, rồi mang theo người. Các trẻ em dùng sợi màu đan túi lưới, rồi bỏ trứng gà, trứng vịt nấu chín trên vỏ có bôi một lớp màu vào túi lưới, vừa có thể mang theo người để làm đồ trang sức, vừa có thể dùng để làm trò chơi. Hai người lấy trứng màu chạm vào nhau, trứng của ai không vỡ vỏ, thì người ấy thắng, người thua có thể ăn một quả trứng rất ngon miệng.
Trung Quốc có diện tích rộng lớn, các địa phương có phong tục ăn Tết Đoan Ngọ khác nhau. Nhưng, đua thuyền rồng, treo lá cây ngải cứu, ăn bánh chưng và uống rượu hùng hoàng là hoạt động thể hiện phong tục dân gian thịnh hành rộng rãi. Vào ngày Tết Đoan Ngọ, dù ở miền nam hay miền bắc, gia đình nào cũng gói bánh chưng, mùi thơm của lá cây ngải cứu và lá gói bánh chưng quyện vào nhau, trở thành mùi thơm đặc trưng của tết Đoan Ngọ.
Những năm qua, Chính phủ Trung Quốc tăng cường bảo vệ văn hóa lễ tết truyền thống, các ngày tết truyền thống như Tết Nguyên Đán, Tết Thanh Minh, Tết Đoan Ngọ v.v. đều được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của Trung Quốc, và trở thành ngày nghỉ của dân chúng.
doanngo3
Trong ngày nghỉ Tết Đoan Ngọ năm nay, thành phố Bắc Kinh tổ chức nhiều hoạt động phong phú đa dạng thể hiện phong tục dân gian thu hút người dân thành phố tham gia. Hoạt động náo nhiệt là cuộc đua thuyền rồng, các quận, huyện thành phố Bắc Kinh đều tổ chức hoạt động đua thuyền rồng. Ngoài ra, các hoạt động khác như thi gói bánh chưng, lễ hội, liên hoan, chương trình biểu diễn xiếc Thiên Kiều v.v. đều sẽ khiến người dân thành phố cảm nhận được sức cuốn hút của văn hóa ngày tết truyền thống

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nếu muốn, bạn dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]