Links - Liên kết dến các trang Website. Blogspot, fb, chuyên trang thơ THI YÊN ĐÌNH NGUYÊN

14 tháng 3, 2005

NGUYỄN DU & HỒ XUÂN HƯƠNG


HỒ XUÂN HƯƠNG &; NGUYỄN DU

Category: LàngVăn - KIMCỔ TÂYĐÔNG, Tag: CLB ThơVăn TYĐN,Văn Thơ
01/25/2010 08:48 am
Nguyễn Du & Hồ Xuân Hương
I. Ba năm vẹn 1 chuyện tình Nguyễn Du & Hồ Xuân Hương 
1., thăm dấu vết từng di tích ghi dấu trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ và nhất là 31 bài thơ của Tốn Phong Nham Giác Phu, viết ca tụng nữ thi sĩ: Tao đàn xuất hiện vị thơ thần và cũng là người đẹp Phi Mai xuân sắc nhất kinh thành, mà hai trăm năm qua cả nước tốn không biết bao nhiêu là bút mực tìm kiếm về nàng.
Hồ Xuân Hương, tên thật là Hồ Phi Mai, con cụ Hồ Phi Diễn, chánh quán tại Quỳnh Lưu, Nghệ Tỉnh,và bà mẹ họ Hà quê Hải Dương, nhưng sinh ra và lớn lên tại làng Nghi Tàm, nơi nổi tiếng nghề dệt lụa, làm giấy, dệt lĩnh đen. Tây Hồ có cảnh đẹp « Tây Hồ Bát Cảnh ». Một thi xã đời Vĩnh Hựu (1735-1739) nhà Lê đã ca tụng tám cảnh đẹp quanh Tây Hồ:

·Bến trúc Nghi Tàm: bến tắm chúa Trịnh Giang dưới dãy trúc ngà làng Nghi Tàm.
·Rừng bàng Yên Thái: khu rừng bàng trên núi đất làng Bưởi do chúa Trịnh Giang bắt trồng.
·Đàn thề Đồng Cổ: Đàn do vua Lý Thái Tông (1028-1054) xây để hàng năm quần thần đến đây, để hàng năm quần thần đến thề để tỏ lòng trung hiếu.
·Phật say làng Thụy. Chùa làng Thụy Chương có pho tượng Phật chống gậy, người thợ điêu khắc sai trông giống như dáng người say rượu, lại hóa ra một kiệt tác, ai xem cũng thích thú.
·Sâm cầm rợp bóng: Nghề săn chim sâm cầm ở các làng quanh Hồ Tây.
·Đồng hoa Nghi Tàm: Làng Nghi Tàm làm nghề trồng hoa có những vườn hoa rất đẹp.
·Chợ đêm Khán Xuân: Chúa Trịnh thường họp hội chợ đêm cùng các cung nữ, thái giám tại đền Khán Xuân để mua vui. Phạm Đình Hổ trong Tang Thương ngẫu lục bài chuyện cũ trong vương phủ có tả cảnh hội chợ: nội thị, cung nữ bắt chước việc mua bán ngoài đời làm trò vui.Chợ đêm vào dịp Trung Thu, hàng ngàn chiếc đèn lồng do các cung nữ chế tạo bằng gấm trong cung, treo khắp nơi. Các quan nội thị chít khăn như đàn bà ngồi bán đủ các thứ hàng, các cung nữ đi lại vừa mua vừa tranh cướp, bắt chước những tiếng thường dùng nơi chợ búa. Nửa đêm Chúa Trịnh ngự xuống thuyển rồng, thuyền bơi qua bơi lại đàn sáo, người hát xướng hoà ca cho đến khi gà gáy.
            - Tiếng đàn hành cung: Tiếng đàn các cung nữ nơi hành cung chúa Trịnh nay là chùa Trấn Quốc.

1.2    Cổ Nguyệt Đường nơi đâu ? Tôi đi nhiều lần trên con đường nhỏ không tên từ chùa Kim Liên đến đình Nghi Tàm và đọc lại thơ các danh sĩ, Nhà nàng là một khu đất rộng trên đường này, nằm bên Bến trúc Nghi Tàm. Tốn Phong gọi nhà nàng là đình, hay viện Thơ Tốn Phong : Ai đến đình mai hỏi chủ nhân Bài 3) Chủ nhân trước viện trắng mai hoa, Bài 5, Riêng tựa đình mai một ánh trăng Bài 7 Đình nguyệt tròn xoe sáng ánh rằm ,Bài23.                                   
            Cổ Nguyệt Đường là một ngôi nhà lớn, năm cụ Hồ Phi Diễn thọ 80 tuổị, năm 1783, học trò cụ lớn, bé, kẻ làm quan đỗ đạt đã chung góp tiền lại xây nhà cho thầy, năm ấy vì bận rộn xây cất, Xuân Hương Hồ Phi Mai được gửi về Quỳnh Lưu quê cha một thời gian. Đó là tục lệ mừng thượng thọ 80 cho thầy ngày xưa, cụ sống đến 83 tuổi, và bà mẹ Xuân Hương họ Hà sống đến năm 1814. Năm 1813 Tốn Phong còn gặp.Năm 1814 Trần Phúc Hiển cưới Xuân Hương, nhưng vì cư tang mẹ một năm, nên năm sau mới về Vịnh Hạ Long. Đình làng Nghi Tàm xưa là một khu đất rất rộng, xưa có Đài Khán Xuân của Chúa Trịnh, nay chỉ còn một cái đình nhỏ khu đất hẹp lại. Cạnh đài Khán Xuân còn có ngôi gác tía của Nguyễn Khản, anh Nguyễn Du, ông thường ra đây đi câu cùng Chúa Trịnh. Từ năm 1790 đến 1793, Nguyễn Du về với anh Nguyễn Nể ở Bích Câu, dinh thự cha anh ở Bích Câu bị kiêu binh phá hủy, Nguyễn Nể khi ra làm quan Tây Sơn có lẽ đã cho xây dựng lại một ngôi nhà trên đất này, nhưng Nguyễn Du thì thường ở nơi ngôi gác tía cạnh đền Khán Xuân.
Cổ Nguyệt Đường cạnh chùa Kim Liên, cho nên Phạm Đình Hổ đã viết: Từ thuở làm thân khách Cố kinh. Kim Liên qua lại đã bao lần, anh chàng này từng là học trò cụ Đồ Diễn, nên biết Xuân Hương từ thuở còn thiếu nữ. Trong Vũ Trung tùy bút tr 42, cho biết năm 1798-1799 có dạy học tại thôn Khánh Văn, hạ lưu sông Tô Lịch không xa nhà Xuân Hương.. Trong Tang Thương Ngẫu lục,q 2 tr 231 có bài ký tả cảnh chùa Kim Liên. « Mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) tôi cùng các ông Nguyễn Thạch Hiên, Nguyễn Kính Phủ, Hoàng Hy Đỗ đến vãn cảnh chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm, nơi trụ trì của Hoà Thượng Huệ (nội thị của chúa Uy Vương) » Phạm Đình Hổ đến thăm Xuân Hương cùng các bạn nhân đó ra về thăm chùa Kim Liên.Qua Vũ Trung Tùy bút ta biết Phạm Đình Hổ nhà ở phố Hàng Buồm và Nguyễn Kính Phủ (Nguyễn Án) ở cạnh đền Lý Quốc Sư bên Hồ Gươm, (nay là phố Nhà Thờ).
Quang cảnh chung quanh Cổ Nguyệt Đường thế nào? : Theo thơ Tốn Phong, người viết tựa cho Lưu Hương Ký.:
Phía trước nhà có trồng một cây bàng lớn: Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình bài 6.
Chung quanh nhà có trồng nhiều cây mai (mơ) Chủ nhân trước viện trắng mai hoa Bài 5, Bên quán người hoa chỉ thích mai.Bài 9 Tiết hàn mai tự nở ngàn hoa bài 26.
Nhà nàng cạnh bến trúc làng Nghi Tàm: Vàng bay lá trúc ngõ chuyền oanh. Bài 6, Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh, bài 14, Khóm trúc đình mai ta với ta, bài 21,Bến trúc mừng vui gặp mỹ nhân bài 25
Trên bến có trồng vài cây liễu: Bến nước đìu hiu liễu rủ cành, bài 6
Trong vườn có trồng cây vông và cây mận: Ngô đồng lá cũ mơ hồn phượng, ngõ hạnh lạnh tàn chuyển bóng oanh ,bài 17.
Nhà Xuân Hương có trồng nhiều hoa, hoa đào, để bán như các nhà khác trong làng Nghi Tàm: Nàng đây đối mặt giữa hoa ngàn, bài 7. Gió mát từng cơn quét ngấn hồng (hoa đào) bài 8. Muôn tía ngàn hồng xuân sắc tới, bài 9 . Hoa trời khai nở rộ đình xuân, bài 25.
Hồ Xuân Hương có nuôi một con chim phượng hoàng đất do người bà con từ Quỳnh Lưu gửi cho: Biếc rụng cành ngô sân phượng múa bài 6. Thơ thời niên thiếu Hồ Xuân Hương có bài Vịnh ông cắn đánh nhau, tả hai con chim phượng hoàng đất bài 35 phần C văn bản Landes.
Nhà nàng quay mặt về hướng Đông nhìn ra Hồ Tây:: Đối mặt trời xanh, mưa móc thuận Bài I.
Nhà được xây cất theo hình chữ khẩu: Có tả viện làm nơi tiếp khách, bán giấy,mực, sách. Hoa đơm tả viện hương còn ẩm, bài 22. Hữu viện là nơi dạy học, tiền viện là nhà thờ, hậu viện là khuê phòng Hồ Xuân Hương.Chính giữa, sân trống có hòn non bộ và chậu kiểng: Chim hót non hàn khói biếc dâng, bài 22
·Cổ Nguyệt Đường cũng không xa Đền Khán Xuân, nay là khu đình làng Nghi Tàm, nơi đó cha, anh Nguyễn Du có ngôi nhà mát để câu cá.. Nguyễn Du sau ba năm(1787-1790) chu du Vân Nam, Trường An, Hàng Châu gặp anh Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn Tuấn tại Hoàng Châu, trở về ở Thăng Long ở với anh Nguyễn Nể. Trong bài Mộng đắc thái liên, Nguyễn Du gọi Xuân Hương là lân nữ, cô hàng xóm, và hẹn hò cùng nàng hái sen. Mối tình ba năm (1790-1793) Chữ tình chốc đã ba năm vẹn .Thơ Hồ Xuân Hương bài Cảm 
Cựu.Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu, hầu Nghi Xuân, Tiên Điền nhân..
Mơ thấy hái sen
Mộng đắc thái liên
 Xắn gọn quần cánh bướm
Khẩn thúc giáp điệp quần
Chèo thuyền nan hái sen.                                                   Thái liên trạo tiểu dĩnh.          
Nước hồ dâng lai láng,
 Hồ thủy hà xung dung,
Bóng người soi nước trong.
Thủy trung hữu nhân ảnh.
·Tây Hồ, hái, hái sen,
II.Thái, thái Tây Hồ liên,
Hoa, gương chất mạn thuyền,
Hoa thực câu thướng thuyền.
Hoa tặng người mình kính,                                                 Hoa dĩ tặng sở úy,
Gương tặng người mình thương.                                       Thực dĩ tặng sở liên.
III Sáng nay đi hái sen.
III.Kim thần khứ thái liên,
Hẹn láng giềng đi với.
Nãi ước đông lân nữ,
Nàng đến tự bao giờ ?
Bất tri lai bất tri,
Cách hoa nghe cười nói . 
Cách hoa văn tiếu ngữ.
IV   Hoa sen ai cũng yêu,
IV. Cộng tri liên liên hoa,
Cọng sen nào ai thích,
Thùy giả liên liên cán.

Trong cuống có tơ bền.
Kỳ trung hữu chân ty,
Vấn vương hoài không dứt.
Khiên liên bất khả đoạn.
V. Lá sen màu xanh xanh,
V. Liên diệp hà thanh thanh,
Hoa sen đẹp xinh xinh,
Liên hoa kiều doanh doanh.
Hái chớ làm lìa ngó,
Thái chi vật thương ngẫu,
Năm sau sen chẳng sinh.
Minh niên bất phục sinh.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
            Bài Mộng đắc thái liên, Nguyễn Du làm khoảng năm 1804-1805, sau khi được triệu vào kinh đô Huế thăng chức Đông Các Học Sĩ, chức vụ thân cận vua Gia Long, hàng ngày dâng sách cho vua đọc, bàn luận cùng vua về trị nước, thảo các chiếu biểu cho vua. Nhìn hồ sen hồ Tịnh Tăm, Nguyễn Du không khỏi nhớ đến những ngày mơ mộng hơn mười năm xưa đã cùng nàng cô hàng xóm, hẹn nàng đi hái sen,nàng đã đến trong lòng chàng từ lúc nào, tiếng nàng vọng từ sau khóm hoa. Nguyễn Du kín đáo ví von tình mình như sợi tơ bền vấn vương hoài không dứt. Xắn gọn chiếc quần ống rộng có dây thun phiá dưới, phùng ra như cánh bướm, chèo thuyền đi hái sen, nước hồ lai láng, dưới nước in bóng hai người. Hái sen Hồ Tây, hái hoa và hái gương, hoa tặng người mình kính, gương tặng người mình thương. Hôm ấy đi hái sen, hoa Nguyễn Du tặng cho bà Hà, mẹ của Xuân Hương và anh Nguyễn Nể, và gương có lẽ tặng hết cho Phi Mai để nấu chè hột sen !. Sáng sớm đi hái sen, hẹn với nàng láng giềng, nàng đến không biết tự lúc nào, sau khóm hoa đã nghe nàng cười nói ròn rã.. Ai cũng thích hoa sen, nhưng mấy ai thích thân hoa sen, có những sợi tơ bền, vấn vương không bao giờ dứt. Nguyễn Du đã kín đáo ví lòng mình, mối tình với nàng không bao giờ dứt.. Lá sen màu xanh xanh, hoa sen đẹp xinh xinh, vì đâu ai hái đã làm lìa ngó, mà năm sau chẳng có hoa sen.?
Trong bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn, Hồ Xuân Hương trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký có câu: Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ. Lời thơ đề chùa Trấn Quốc rêu phong cổ kính
còn vang vọng. Bài Đề Trấn Quốc Tự Hồ Xuân Hương chép trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, tập thơ này gồm những bài ngâm vịnh rất đứng đắng, có lẽ Đại Thần Trương Đăng Quế, Tùng Thiện Vương đã đọc tập này nên sánh với Mai Am Công Chúa với Hồ Xuân Hương và Phạm Lam Anh (Thế kỷ 19, các nhà thơ đương thời nhìn Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đứng đắn, lãng mạn, không có chuyện là một nhà thơ dâm tục)
            Ai là người đến đó khách đài trang, dòng dõi quyền quí, cơn gió nam nhẹ lướt êm êm, trăng nước sóng lồng cánh sen vừa mới nở, non nõn tinh khiết. Khói hương chùa như chiếc tàng lộng quý báu, lại bay lên, như cánh cò cánh hạc nối mây. Đóa hoa sen mới nở như nụ cười hàm tiếu nhẹ nhàng rửa tan niềm tục, cỏ xanh mùa xuân như gợi tỉnh niềm mơ. Đến cảnh muốn nhìn lại hỏi chàng. Nguyễn Du lòng đang muốn về quê Hồng Lĩnh, tung tay áo vẫy gọi đàn hồng nhạn bay về phía Đông Nam.
            Đề chùa Trấn Quốc                                                        Đề Trấn Quốc tự
Ai người đến đó, khách đài trang,                                              Trang lâm thùy thị cảnh trung nhân,
Nhẹ lướt êm êm cơn gió Nam.                                              Tế tế thanh phong phiến phiến huân.
Trăng nước sóng lồng sen nõn cánh,                                         Thủy nguyệt ba lung liên quải choát,
Khói hương tàn báu hạc bay ngàn.                                            Hương yên bảo thoại lộ liên vân.
Rửa niềm trần tục hoa hàm tiếu,                                     Tẩy không trần lự hoa hàm thoại,
Gợi tỉnh niềm mơ cỏ thấm xuân.                                                Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Đến cảnh quay đầu người muốn hỏi,                                          Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vấn,
Đông Nam tay vẫy nhạn tung đàn.                                              Đông Nam phất tụ nhạn thành quần.
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ
I. 5.      Bài Hỏi Trăng trong thơ truyền khẩu Hồ Xuân Hương, văn bản Landes do Lê Quý chép năm 1882 từ một bản của con cháu Tử Minh, học trò Xuân Hương.ghi lại tâm sự một người con gái mới biết yêu. Yêu Nguyễn Du rồi Xuân Hương tự hỏi với lòng mình. Hỏi vầng trăng muôn thuở, mấy thu qua vẫn tròn, câu hỏi vu vơ cớ sao trăng tròn lại khuyết, hỏi thỏ trên cung trăng bao nhiêu tuổi. Hỏi chị Hằng Nga vợ Hậu Nghệ đã mấy con rồi. Đêm tối cớ chi soi duyên nàng đến với Nguyễn Du con nhà quyền quí ở gác tía lầu son. Khiến cho ngày xanh gặp nhau thẹn với mặt trời đang lên. Năm canh lơ lửng trằn trọc nhớ ai, hay đã có tình riêng với nước non, với chàng
Hỏi trăng
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ?
Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi ?
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con ?
Đêm tối cớ chi soi gác tía ?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó,
Hay có tình riêng với nước non.

I. 6
 Bài Duyên kỳ ngộ trong văn bản Landes. Xuân Hương tin rằng gặp Nguyễn Du là duyên kỳ ngộ. Vì dinh thự cha anh ở Bích Câu bị kiêu binh đốt phá, nên mới ra ở nơi gác tía câu cá của ông anh Nguyễn Khản nên có dịp gần gủi với Xuân Hương. Hồ Phi Mai tin ở duyên số, dù có xa nhau ngàn dậm, có duyên thì sự cũng thành, sẽ cưới nhau. Xin đừng lo lắng mà phí cả tuổi xuân xanh. Gặp nhau nói chuyện thơ văn, thơ họa nhau không dứt; tình trong sáng nguyên vẹn, dù có ai dương cung đe doạ hay nói xấu việc gì, mình cũng như lá lành, cung tên bắn gần lá trợt lớt, chẳng sao. Sẳn bút đề thơ, chúng ta cứ đàng hoàng, chỉnh tề cư xử chẳng sợ ai. Không cần thả lá đề thơ như cung nữ Hàn Thúy Tần với chàng Vu Hựu. Lòng ta như chim tới vườn đào, tình sẽ đẹp tươi.
      Duyên kỳ ngộ
Nghìn dậm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh,
Tấc gang tay họa thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẳn bút đề đường chỉnh chiện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh,
Tuy không thả lá trôi dòng ngự.
Chim tới vườn đào thế mới xinh.
I.7   Rồi một ngày cuối mùa hạ năm Quý Sửu 1793, mối tình đúng ba năm vẹn. Mùa Xuân 1790 hẹn gặp Đoàn Nguyễn Tuấn ở Thăng Long, Nước nhà hẹn gặp lại xuân sang Thơ Đoàn Nguyễn Tuấn tặng bạn văn chương họ Nguyễn tại Hoàng Châu,Trung Quốc, mùa hạ sen nở, gần đến cuối hạ mới đi hái sen hái gương quen Hồ Phi Mai. Nguyễn Du báo tin cho Hồ Phi Mai biết chàng trở về Hồng Lĩnh cùng em Nguyễn Ức, xây dựng lại từ đường, đình chùa, cầu Tiên cùng làng Tiên Điền đã bị tướng Tây Sơn Lê Văn Dụ làm cỏ, đốt phá năm 1790 do cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh.
            Anh Nguyễn Nể sau khi đi sứ về, làm quan ba năm tại Bắc Hà, Vua Quang Trung mất năm 1792, nay được Vua Cảnh Thịnh thăng Đông Các Đại học sĩ, gia thăng Thái Sử, Thự tả Nghị lang, được lệnh về Phú Xuân trông coi văn thư Cơ Mật Viện. Chức vụ gần như thường trực, thầy dạy bên cạnh vị vua trẻ mới lên mười. Nguyễn Nể không thể trông coi việc xây cất nên giao việc này cho hai em là Nguyễn Du và Nguyễn Ức, nhất là Nguyễn Ức có tài kiến trúc, vẽ kiểu ,tính toán, chỉ huy thợ về sau cung điện Phú Xuân thời Gia Long Minh Mạng đều do ông chỉ huy xây cất.
Biết tin này Hồ Xuân Hương đau đớn viết bài Tưởng đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ tẩu bút phụng trình. Nghĩ đến tình đời sụt sùi rơi lệ, nhân đó cầm bút viết nhanh thơ đưa Nguyễn Du để gửi trình bày tỏ nỗi lòng mình. Mối tình đầu thắm thiết Xuân Hương thệ nguyện ba kiếp hẹn nghĩa non vàng với Nguyễn Du, buồn man mác lòng mình nên thổ lộ cùng chàng..Em chẳng vượt đèo mây Tam Điệp cùng chàng về Hồng Lĩnh, nhưng lời thề nguyền hương lửa ngỡ cũng lên đường theo chàng. Lời nào mình thề hẹn với nhau cùng nước non, chàng có vì trăng gió mà chán chường lòng em chăng ? Dù em có đầy đọa tấm thân em chẳng tiếc. Mình thương nhau làm sao cho trọn tấm lòng. Bài thơ chữ nôm, tựa chữ Hán, chép trong Lưu Hương ký.
Tưởng đáo nhân tình minh
nhiên hạ lệ tẩu bút phụng trình
Ba sinh tự hẹn nghĩa non vàng
Man mác lòng riêng lại ngỡ càng.
Lối bước đèo mây đành chẳng đã,
Mảnh nguyền hương lửa ngỡ lên đường.
Nước non lời nọ nào chuông chắn,
Trăng gió lòng kia mãi chán chường.
Đày đoạ thân này thôi chẳng tiếc.
Thương sao cho trọn tấm lòng thương.
Chú thích:
Ba sinh: ba kiếp sống tích ba sinh hương hỏa, Sách Quần Ngọc chú chép: Tỉnh Lang tới chơi, chùa Nam Huệ tự nằm chơi ngủ quên thấy mình đi chơi non Bồng, gặp một ông thầy ngồi niệm kinh trước mặt có cây hương đang cháy. Tỉnh Lang hỏi, ông thầy đáp: khi trước có một người đi chùa thắp cây nhang này, khấn nguyện, nhang hãy còn cháy, mà người ấy đả trải qua ba kiếp rồi.: Kiếp đầu làm quan Phủ Sứ đất Kiến Nam,thời Đường Huyền Tôn, kiếp sau làm quan, Tây Thục đời Đường Hiến Tôn. Và kiếp thứ ba tên Tĩnh Lang. Tĩnh lang nghe tên giật mình tỉnh dậy, nửa tin nửa ngờ.
I.8.Bài Giang nam phụ níp kiêm lưu biệt hữu nhân, Lưu biệt bạn khăn gói sang sông Nam, Hồ Xuân Hương viết năm 1793 để tiễn Nguyễn Du về Hồng Lĩnh. Cuộc tiễn đưa nơi trường đình phía Nam sông Hồng, tên gọi là sông Vị Hoàng, Nam Định ngày nay. Nguyễn Du, Nguyễn Ức mang một số tiền khá lớn, có lẽ là tiền thưởng Nguyễn Nể sau khi đi sứ về, đi thuyền kín đáo, an toàn hơn đi đường bộ. Ngày xưa chưa có va-li, người Việt xưa dùng một tấm khăn vải lớn, bọc hết đồ đạc, hai đầu cột chặt để giữ hành lý, hai đầu kia thắt dây dài mang trên vai. Khăn gói bây giờ chia tay nhau vạn dậm, vạn dậm đây chỉ là một cách nói đi xa xăm, vì từ Vị Hoàng về đến Hồng Lĩnh chỉ vài trăm dậm. Nơi trường đình rót chén rượu đặt trên khay mời trao nhau.Cánh buồm sẽ căng lên đôi cánh vì sầu làm thuyền nghiêng nặng. Chàng đi vì nặng việc gia đình, Em cố nén lòng như nước sông sâu để nước mắt chẳng trào. Nhìn lại cây cỏ cũ mùi hương chửa mất. Xa quê bóng lại núi non Hồng Lĩnh cao ngất. Xa nhau rồi còn sẽ có ngày chúng ta gặp lại nhau. Nếu lỗi lời thề non hẹn biển thì thà chết đi trên ngọn sóng đào.
Lưu biệt bạn  
Giang Nam phụ níp
khăngói sang sông Nam                                                           khiêm lưu biệt hữu nhân
Khăn gói bây giờ vạn dặm nao, 
Phụ níp kim tòng vạn lý dao,
Trường đình rượu tiễn chén mời trao.                             Trường đình tửu tiễn thượng thù giao.
Buồm căng đôi cánh sầu nghiêng nặng.                         Muộn đôi phàm tịch thuyền thiên trọng,
Sầunén sông sâu nước chẳng trào.
Sầu áp giang tâm thủy bất trào.
Cỏ cũ lặng nhìn hương chửa mất. 
Cựu thảo ngưng mâu hương vị tán.
Xa quê quay ngóng núi quê cao.
Tha hương hồi thủ vọng cô cao
Xa nhau còn có ngay gặp lại,
Tuy nhiên thượng hữu tương phùng nhật,
Thề biển tha cho ngọn sóng đào.
 Thệ hải minh sơn nhất lãng đào.

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch
Chú thích:
Giang Nam: Dữu Tín người đời Nam Bắc Triều, làm quan xa nhà lâu ngày không về, có làm bài Ai Giang Nam phú tỏ lòng nhớ thương quê hương, từ đó chữ Giang Nam còn có nghĩa là lòng nhớ thương quê hương..
I.9 Thạch đình tặng biệt.   Trường đình nơi sông Vị Hoàng là một cái đình bằng đá, xây chắc chắn vì ven biển nhiều gió bão lớn., nên còn gọi là thạch đình. Đình đá Vị Hoàng là một bến cảng lớn trên đường đi thuyền vào Phú Xuân, các cuộc đi sứ đi thuyền đến đây, có lẽ sợ đường bộ có truông nhà Hồ và phá Tam giang nguy hiểm. Bản Lưu Hương ký thiếu chữ biệt nên các ông Trần Thanh Mại, Đào Thái Tôn lầm tưởng là một người tên Thạch Đình làm thơ tặng Hồ Xuân Hương.. Nguyễn Du đã ứng khẩu bài thơ tặng Hồ Xuân Hương. Bài thơ chữ Nôm của Nguyễn Du.
Bấy lâu nay ta đã quen biết nhau, có tình có nghĩa với nhau nhiều kỷ niệm, nay nặng lòng với việc nhà, việc nước anh phải về quê hương. Khúc phượng cầu kỳ hoàng, lời tỏ tình anh chưa nói cùng em, lòng em đã mơ màng giấc chiêm bao. Có chắc ta yêu nhau chưa cho lửa tình bén cháy, những giọt lệ tình tiếc mùa xuân đi qua. Tình như lá xanh hoa vàng nếu chẳng phụ lòng nhau, thì rồi đây chúng ta sẽ có ngày sum họp. Bài thơ khá chua chát hay Nguyễn Du muốn thử lòng nàng có thật yêu mình không ? hay. Xuân Hương yêu tha thiết Nguyễn Du, nhưng chàng có lẽ vì bận hoài bảo công danh, muốn đi vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh, nên lòng còn hờ hững. Tròn trặn gương tình cũng có khi.
Thạch đình tặng biệt
Đường nghĩa bấy lâu trót vẽ vời,
Nước non sầu nặng muốn đi về.
Cung hoàng dịu vợi đường khôn lọt,
Đường nguyệt mơ màng giấc hãy mê.
Đã chắc hương đâu cho lửa bén,
Lệ mà hoa lại quyến xuân đi.
Xanh vàng chẳng phụ lòng ân ái,
Tròn trặn gương tình cũng có khi..
Thơ chữ Nôm Thanh Hiên Nguyễn Du
Hồ Xuân Hương chép trong Lưu Hương ký.
I. 10 Bài thơ này Nguyễn Du xứng đáng bị một tát tai, nếu gặp phải người yêu ngày nay, Nhưng Hồ Xuân Hương đã chua xót họa lại bằng bài Họa Thanh Hiên nguyên vận. Văn bản chép là họa Thanh Liên nguyên vận, nhưng Thanh Liên là bút hiệu thi hào Lý Bạch. Bút hiệu Thanh Hiên từ khi về Quỳnh Hải cưới vợ năm 1797 mới dùng, năm 1796 Nguyễn Du còn dùng bút hiệu Chí Hiên. Có lẽ lúc này Nguyễn Du dùng bút hiệu Thanh Liên Chí Hiên chăng ?
Bài thơ Hồ Xuân Hương viết: Tay em còn chờ chàng dạy khúc Phượng cầu kỳ hoàng, chờ chàng ngỏ lời cưới em, chàng như cánh phượng đường mây, chàng có tài cao, đường công danh thênh thang đã vội chi. Chua xót đọc bài thơ chàng viết để lại cho em, sao chàng hững hờ duyên em bấy lâu nay mà nở bỏ đi. Thử vàng đá, em treo giá ngọc mà đợi chàng, dù hoa có quý báu như phong gấm, hoa nở cũng có thời gian, em là gái chưa chồng, tuổi xuân nở cũng có lúc, lòng như đào thắm mận xanh còn nhiều niềm vui, chàng ơi, sao đành nở dứt ra đi.
Họa Thanh Liên Chí Hiên nguyên vận
Khúc hoàng tay nguyệt còn chờ dạy,
Cánh phượng đường mây đã vội chi.
Chua xót lòng xem lời để lại,
Hững hờ duyên bấy bước ra đi.
Thử vàng đá nọ treo từng giá,
Phong gấm hoa kia nở có thì,
Đào thắm mận xanh còn thú lắm,
Xuân ơi đành nở đứt ra về.
Thơ Hồ Xuân Hương chép trong Lưu Hương ký.
Nguyên Du có dạy đàn cho Hồ Xuân Hương. Trong thơ Phạm Đình Hổ bài Sở hữu cảm có câu: Buông đàn cười chẳng gảy. Ngại làm ai chạnh lòng.
Tốn Phong từ xa đi ngựa đến, đã nghe tiếng nàng đàn: Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh, bài 14.Tốn Phong đã từng thổi sáo và Hồ Xuân Hương đánh đàn:Thần vào sáo ngọc tung sao đẩu, Hứng nhập ly quỳnh chén cổ kim. Đàn chuyển tiếng thu vang tỉnh viện, Mộng chuyền xuân bướm ngát thơm chăn, bài 7.
Thuyền Nguyễn Du ra khơi, để lại một mình Xuân Hương Hồ Phi Mai trên thạch đình khóc nức nở./.
II. Những bài thơ tình gửi đáp Hồ Xuân Hương & Nguyễn Du từ Tiên Điền đến Nghi Tàm (1794-1796)
·1. Nguyễn Du về đến Tiên Điền, Hồng Lĩnh không nhà, anh em lưu lạc.Thật sự thì anh em Nguyễn Du chẳng bao giờ ở tại Tiên Điền cả. Những năm cuối cùng nhà Lê -Trịnh . Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ Lại, chức vụ ngang với Thủ Tướng ngày nay, lại kiêm trấn thủ Hưng Yên, Thái Nguyên và Sơn Tây. Tại Sơn Tây Nguyễn Khản giao quyền cho Nguyễn Điều làm Đốc Trấn, có Nguyễn Nể phụ tá. Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ nắm giữ binh quyền tại Hưng Yên. Và tại Thái Nguyên, Nguyễn Quýnh giữ chức Trấn Tả Đội, Nguyễn Du làm Chánh thủ Hiệu, quân Hùng hậu hiệu, đội quân mạnh nhất Thái Nguyên, Cai Gia tức Nguyễn Đại Lang làm Quân Sư.. Cai Gia nhân vật này có tên trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vốn là người Phản Thanh Phục Minh Trung Quốc, là tay 'giặc già' , được Nguyễn Khản thu nạp làm môn hạ, để dạy võ cho các em, . Thái Nguyên là nơi nhiều dân Trung Quốc sang khai mỏ, trộm cướp, trốn thuế. Cai Gia là người trị nổi đám người này; Nguyễn Du kết nghĩa sống chết với Cai Gia (Sinh Tử giao tình tại. Bài Tiễn biệt Nguyễn Đại Lang) nên gọi là anh Cả. Khi nhà Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du, Nguyễn Đại Lang và Nguyễn Sĩ Hữu (tức Nguyễn Quýnh) chạy sang Vân Nam. (Tôi bác bỏ việc Nguyễn Du nhận tập ấm cha nuôi họ Hà, giữ một chức quan võ nhỏ như gia phả ghi.Thật sự Nguyễn Du là đại diện binh quyền cho anh Nguyễn Khản tại Thái Nguyên).
Hai anh lớn Nguyễn Khản, Nguyễn Điều đã mất năm 1786, Nguyễn Nể làm quan ở Phú Xuân, Nguyễn Quýnh bị Tây Sơn giết năm 1790 tại Hà Tỉnh, Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ đại diện binh quyền cho Nguyễn Khản từ Hưng Yên về ở Chu Kiều, Bắc Ninh làm nghề thuốc. Nguyễn Nghi viết truyện thơ Quân Trung Đối dài 1116 câu, và có con là Nguyễn Toản đỗ Tiến Sĩ đời Minh Mạng làm quan đến chức Viên Ngoại Lang. Nguyễn Trứ làm nghề thuốc, đậu Tam Trường năm 1779 đời Gia Long có ra làm quan Tri phủ Nam Sách, có con là Nguyễn Thích tri phủ Nghĩa Hưng, Nam Định, Nguyễn Trù tri phủ Vĩnh Tường, và Nguyễn Thị Uyên làm thuốc giỏi được mời vào cung chữa bệnh cho các cung nữ đời Gia Long .Trong anh em Nguyễn Du có lẽ chỉ có Nguyễn Nhưng là ở Hà Tỉnh.
            Theo Gs Hoàng Xuân Hãn, trong danh sách những người ra cộng tác với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ở Sùng Chính Viện đời Tây Sơn, có Nguyễn Công con Nguyễn Khản, và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều.
Nguyễn Hành con thứ hai Nguyễn Điều, nhà thơ tài hoa trong năm nhà thơ nhất nước đương thời, lúc này cũng đang ở Hồng Lĩnh, nên có nhiều kỷ niệm về các cuộc đi săn của Hồng Sơn Liệp Hộ Nguyễn Du.
            Về Tiên Điền, hai anh em Nguyễn Du, ở trong một căn nhà nhỏ trên bến Quế Giang, đầu sông Long Vĩ, cạnh Giang Đình, để tiện việc chở gạch, ngói, gỗ, đá về xây cất bằng thuyền. Nguyễn Du có lẽ nằm nhà trông coi việc trả lương thợ và tiếp nhận vật liệu. Công việc xây dựng lại làng Tiên Điền khá quy mô. Có đến bốn đền thờ họ Nguyễn Tiên Điền: Đền thờ ông Nguyễn Lĩnh Nam tức cụ Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du, đề thờ ông Nguyễn Tiên Lĩnh Hầu tức Nguyễn Huệ (1705-1733) chú Nguyễn Du, đền thờ Xuân Quận Công tức Nguyễn Nghiễm(1708-1776) cha Nguyễn Du, đền thờ Nguyễn Lam Khê tức Nguyễn Khản (1734-1786). Đền thờ Điền Nhạc Hầu tức Nguyễn Điều (1745-1786).ngoài ra còn có chùa Trường Ninh và Cầu Tiên.
Mọi chi phí đều do Nguyễn Nể cung ứng, cuối năm 1794, Nguyễn Du có vào Phú Xuân nhận món tiền thứ hai.
            Về Tiên Điền, Nguyễn Du chỉ còn người bạn hiệu là Thực Đình (ăn ở đình làng) tặng cho chiếc áo vải, người bạn dạy học lây lất không đủ sống. Sách vở họ Nguyễn Tiên Điền, không kém gì Phúc Giang thư viện họ Nguyễn Trường Lưu hàng vạn quyển sách, được triều đình sắc phong, bị cháy mười phần còn một hai, chất quanh vách nhà, ngoài cửa một khóm cúc vàng, bếp vắng lặng vì thiếu người đàn bà bếp núc. Nguyễn Du hớp rượu cho hồng sắc diện. Về đây sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du phải Khóc cười thời loạn theo trần thế, bệnh yếu lặng câm mà giữ thân.
Về Tiên Điền bệnh cũ mười năm trước ở Vân Nam tái phát, Nguyễn Du: Nằm bệnh mười tuần bến Quế Giang.Ngày xưa tuần là tuần trăng, nửa tháng, từ trăng tròn đến trăng khuyết. và từ không trăng đến tròn trăng.
II.2 Nhân có một người quen về Hồng Lĩnh, Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du bài Nhân tặng, bài này chép trong Lưu Hương ký.: Chàng đã về quê quán, nơi từ đường của danh gia vọng tộc, cách xa bao non núi. Xuân Hương chẳng có dịp may nào để xông pha về thăm chàng. Mấy hàng chữ viết thăm chàng, nước mắt rơi lai láng, một bài thơ, một mảnh giấy lòng em đợi tin chàng. Muốn thả lá đề thơ nhưng e ngại ngọn nước triều không đưa đến, muốn gửi quà nhièu hơn nhưng e ngại mỏi cánh chim hồng. Ước gì có người tiên hiện xuống nơi trần thế giúp tình ta, có vầng trăng soi tỏ tấm lòng.
Nhân tặng
Nghiêm thẳm hầu môn biết mấy trùng,
May chăng khôn lẽ dám pha xông.
Mấy hàng chữ mực châu lai láng,
Một mảnh tờ mây ý mộng mong.
Buông thả luống e khơi ngọn nước.
Gửi trao còn ngại mỏi vai hồng.
Người tiên ví chẳng soi trần thế,
Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng.

·Nguyễn Du đã trả lời bài Nhân tặng của Xuân Hương bằng bài Ký hữu, Gửi bạn bài số 33 trong Thanh Hiên thi tập. Xuân Hương viết: Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng, Nguyễn Du đáp lại:Một vầng trăng sáng tình ta đó.
Mờ mịt không trung cát bụi đầy trời, tình hình chính trị mờ mịt, nay Quang Trung mất, triều đình rối loạn các đại tướng đem quân đánh nhau. Nguyễn Ánh đang nổi lên ở phương Nam ngày một mạnh, đã chiếm Gia Định, chưa biết tình hình ra sao. Từ ngày về Tiên Điền, đóng cửa nằm khàn trong nhà, một vầng trăng sáng tình ta đó, non Hồng dài trăm dậm, đôi ta chung chính khí tổ tiên hun đúc. Việc đời trước mắt như đám mây nổi, sớm hiện rồi tan, thanh trường kiếm dắt ngang lưng chưa dùng vào việc gì phất phơ trong gió thu. Một mình không nói nhìn khóm trúc trước sân.Sương tuyết tan đi trúc sẽ hóa rồng, tài năng kẻ sĩ sẽ được trọng dụng.
Gửi bạn                                                                                    Ký hữu
Mờ mịt không trung gió bụi trần,                                                Mạc mạc trần ai mãn thái không.,
Cửa gài, kê gối mãi nằm không.                                                Bế môn cao chẩm ngọa kỳ trung.
Một vầng trăng sáng tình ta đó,                                     Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại,
Trăm dậm Hồng sơn chính khí cùng.                                          Bách lý Hồng Sơn chính khí cùng.
Trước mắt phù vân, ôi thế sự,                                                    Nhãn để phù vân khan thế sự,
Bên lưng trường kiếm nổi thu phong.                             Yêu gian trường kiếm quải thu phong.
Đầu sân ngóng trúc lòng không nói,                                           Vô ngôn độc đối đình tiền trúc.
Sương tuyết tiêu tan sẽ hóa rồng.                                              Sương tuyết tiêu thời hợp hoá long.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch
III.4 Bài Thu dạ hữu hoài trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, Xuân Hương gửi Nguyễn Du: Câu Bóng nhạn về đâu, mây ở lại, Nhạn là Nguyễn Du đã bay xa, mây là Xuân Hương còn ở lại.Bài thơ viết khoảng năm 1794. Đêm tàn, Xuân Hương còn thức, ngơ ngẩn thương nhớ chàng đi xa, nơi lầu mây, rượu rót nhưng không tri âm, không uống để lạnh, nửa vầng trăng tà chiếu lóng lánh bạc.Nước chảy, gió thổi mãi, giọt nước trong hồ đồng rơi đều. Hoa hay trăng tự lòng Xuân Hương, lòng Xuân vắng vẻ, Xuân hứng không nhiều ư ? Bóng chàng như bóng chim nhạn bay về đâu ? Chỉ còn nghe tiếng dế trùng than khóc, dòng nước trôi mãi, đêm tàn thêm lo..

Đêm thu cảm hoài                                                                     Thu dạ hữu hoài.
Đêm tàn người thức lòng ngơ ngẩn,                                     Dạ thâm nhân tỉnh độc trù trù
Rượu lạnh lầu mây bạc ánh tà.                                       Vân lâu tửu lãnh ngân hoàn bán.
Nước chảy gió đùa trơ mặt ngọc,                                              Thủy khoát phong trường ngọc lậu cơ.
Hoa hoa, nguyệt nguyệt nỗi lòng ta.                                           Hoa hoa, nguyệt nguyệt chủ nhân cô.
Xuân vắng vẻ,                                                                           Xuân tịch tịch,
Xuân hứng chẳng nhiều ư ?                                                       Xuân hứng bất đa hồ ?
Bóng nhạn về đâu mây ở lại,                                                     Nhạn ảnh hà qui vân tự trụ.
Dế trùng than khóc nước trôi hờ,                                               Trùng thanh như khốc thủy không lưu;
Đêm tàn nên lo.                                                             Tuế án tu liên.
Nhất Uyên dịch thơ                                                                    Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương.
·5         Nguyễn Du phúc đáp bài Thu da hữu hoài của Hồ Xuân Hương bằng bài Thu dạ I. trong Thanh Hiên thi tập: Anh đã nghe tiếng dế trùng than khóc nơi tường đông, vì mây ở lại Thăng Long với em nên Hồng Lĩnh trời lạnh ngắt không một vầng mây.
Trời đầy sao sáng, sương móc trắng như bạc, tường đông dế gặp lạnh kêu buồn thảm, chua xót.(tiếp ý dế khóc bài Thu dạ hữu hoài) Bầu trời một màu lạnh ngắt không một làn mây. Mây ở hết bên em rồi, anh chỉ là cánh chim đơn côi trong trời lạnh giá. Thấm thoát thời gian qua nhanh, tuổi càng cao, tóc bạc vì nhiều suy nghĩ trông rất thảm thương. Ở mãi nơi đây, núi xanh chưa chán người, người đi chơi xa bên trời lòng mỏi mệt, Suốt năm nằm bệnh bến Quế Giang. Sông Quế là một tên khác của sông Lam, dưới chân núi Hồng Lĩnh.
Đêm thu I                                                                                              Thu Dạ I
Đầy trời sao sáng bạc sương dâng,                                           Phồn tinh lịch lịch lộ như ngân,
Dế lạnh tường đông thảm thiết buồn.                                         Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
Vạn dậm tiếng thu rung lá rụng,                                      Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp,
Một trời khí lạnh vắng mây vương.                                             Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân.
Già rồi tóc bạc lòng thêm xót,                                        Lão lai bạch phát khả liên nhữ,
Ở mãi non xanh chẳng chán chường.                                         Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân.
Ngán nỗi bên trời lòng khách mệt,                                              Tối thị thiên nhai quyện du khách,
Suốt năm nằm bệnh Quế giang tân.                                            Cùng niên ngọa bệnh Quế giang tân.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ
·6. Xuân Hương đã phúc đáp bài Thu Dạ I của Nguyễn Du bằng bài Thu Vũ. Mưa Thu. Nàng đã khóc khi nghe Nguyễn Du bệnh gần cả năm, tóc đã nhuốm bạc. Trời ảm đạm mây mù dăng mờ mịt, lòng em như mây (tiếp ý mây bài Thu dạ hữu hoài và Thu Dạ I), nhưng mây đầy trời ảm đạm và mù mịt, tí tách mưa thu rơi trên sân vắng. Đầu cành cây khô giọt lệ dài ngắn, trên lá chuối vàng, tiếng thưa mau. Ngâm đọc xong bài Thu Dạ (I) , đê mê như mơ thương nhớ chàng cách xa ngàn dậm, sầu vấn vương dăng mắc mối tình năm canh. Nơi khuê phòng, người nhan sắc, mặt hoa đau khổ vô cùng, một mảnh lòng sầu vẽ mãi không thành.
Mưa thu                                                                                                Thu vũ
Trời thảm mây dăng tối mịt mùng,                                              Thiên cách vân âl thảm bất minh,
Mưa thu tí tách nhỏ ngoài sân.                                       Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.
Cây khô dài ngắn rơi hàng lệ.                                        Doản trường khô thụ chi đầu lệ,
Tàu chuối vàng tơi tiếng chậm nhanh.                             Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm dứt đê mê sầu vạn dặm,                                      Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,
Buồn dâng quạnh quẽ nỗi năm canh.                                          Sầu khiên liêu tịch ngũ canh tình.
Khuê phòng riêng khổ người nhan sắc,                          Thâm khuê tối khổ như hoa diện
Một phiến sầu vương vẽ chẳng thành.                            Nhất phiến sầu dung họa bất thành.
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ.
·7. Nguyễn Du trả lời bài Thu Vũ của Hồ Xuân Hương bằng bài Thu Dạ II..
Tiết bạch lộ tháng tám âm lịch, hơi thu đã già, qua tháng chín tà tiết sương dâng, không phải chỉ lòng em đầy mây mù đâu, lòng anh cũng lạnh lẽo sương dâng mờ mịt cây cỏ quanh bến giang thành đìu hiu. Bên đèn khuya quạnh quẽ ngóng đợi.Vắt tóc như Chu Công bận lo việc nước, vừa gội đầu vừa tiếp sĩ phu, phải vắt ba lần mới gội đầu xong.Lo cái chí nguyện tàn phai theo ngày tháng, non sông nghìn dậm càng nghĩ càng nhớ càng lo lắng trong ngày dài. Phong cảnh bốn mùa thay đổi riêng mình ngậm ngùi buồn, trời chớm lạnh, mới hay không áo là khổ, nghe tiếng chày người khuê phụ đập vải trong chiều, lòng nhớ đến em nơi khuê phòng trông ngóng.
Đêm thu II.                                                                                                        Thu Dạ II.
Móc trắng sương thu dăng mịt mùng,                            Bạch lộ sương vi thu khí thâm,
Dìu hiu cây cỏ bến giang thành.                                     Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm.
Đèn khuya quạnh quẽ đêm dài ngóng,                            Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ,
Vắt tóc lo hoài chí nhạt tan.                                                       Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm.
Vạn dặm giang sơn dài nỗi nhớ,                                                Thiên lý giang san tần trường vọng,
Bốn mùa mây nước ngậm ngùi trông.                            Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm.
Chớm lạnh mới hay không áo khổ,                                             Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
Tiếng chày khuê phụ, bóng chiều phong.                                    Hà xứ không khuê thôi mộ châm..

 Thơ chữ Hán Nguyễn Du Thanh Hiên Thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú Thích:
Bạch lộ: sươn,g móc trắng, tiết bạch lộ là tháng 8 âm lịch.
Ác phát: Chu Công bận lo việc nước có kháh lại, ông vắt tóc lên ra tiếp, phải vắt ba lần mới gội đầu xong.

·8   Rồi mùa thu sau. Xuân Hương lại gửi đến Nguyễn Du bài thơ chữ Hán. Cố kinh thu nhật, trong Hương Đình Cổ nguyệt thi tập.: Thấm thoát đã bao mùa thu qua, bóng trăng xế bóng, tuổi càng cao ngày một quá thì, nơi chốn cũ phồn hoa nhớ xưa cùng mời rượu chàng. Dòng sông Tô nước chảy về hướng Tây không ngừng nghỉ, trời quang đảng trông rõ bóng núi Tam Đảo phía Bắc xa xa.. Dưới đèn nơi Cổ Nguyệt Đường thương chăn xanh, vật cũ di sản nho học dòng dõi cha ông. Sương móc xuống rơi đọng quanh nhà., sương móc trắng không chỉ rơi nơi anh (bài Thu Dạ II), mà nơi em cũng rơi đọng quanh nhà. Ước gì đôi ta thử gặp lại nhau cho đỡ mong nhớ? Năm hết, tết sắp đến, anh mãi xa thế mãi a ?
Ngày thu kinh đô cũ                                                                 Cố kinh thu nhật
Thấm thoát đường thu ánh nguyệt tà                              Nhiễm nhiễm chinh đồ thu nguyệt tà.
Chốn xưa rượu chuốc chén phồn hoa.                           Nhất bôi hoàn đối cựu phồn hoa.
Dòng Tô nước cuốn về Tây mãi,                                                Nhất Tô thủy lạo Tây vô tận,
Tam Đảo trời quang vọng Bắc xa.                                              Tam Đảo tình quang Bắc vọng xa.
Đèn nguyệt chăn xanh thương vật cũ,                            Đăng nguyệt thanh chiên bi cố vật,
Sương buông móc trắng đọng bên nhà.                         Sương tiền bạch lộ lạc thùy gia.
Ước gì gặp lại vơi mong nhớ                                                     Thử lai tương đối trùng tương đắc
Khách cũ, năm tàn mãi thế ai ?                                       Khách cũ niên thâm nhược nại hà ?
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Thanh Chiên: chăn xanh lót bằng tơ tằm thô, hay bông vải, làm mền đắp cho khỏi lạnh. Vương Hiến Chi đời Tấn, đêm thấy kẻ trôm vào nhà lấy nhiều đồ vật. Ông ung dung bảo với tên trộm rằng: Lấy gì thì lấy nhưng cái chăn xanh là vật cũ của nhà ta, nên bỏ trả lại ta. Về sau người ta dùng chữ thanh chiên để chỉ những nhà dòng dõi nho học.
·9.    Nguyễn Du   phúc đáp bài Cố kinh thu nhật của Hồ Xuân Hương bằng bài Khai song, dùng lại điển tích thanh chiên và cũng ý mùa thu. Nguyễn Du vẫn giữ mãi cái chăn xanh, như tấm lòng yêu thương nàng, và cho biết đang chữa bệnh nên chậm thư phúc đáp.
            Cảnh vật trước nhà nay ra sao, thong thả mở cửa sổ, thấy cảnh vật tươi vui, anh nằm đóng cửa, bệnh chẳng biết trời trăng gì. Sáu tháng qua có gió lớn đưa cánh chim Bằng bay mãi không nghỉ. Phải chăng chim Bằng là Bằng quận công, gặp thời nhứ gió bay cao. Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc hạ Hoàng Đình Bảo, khi Bảo bị kiêu binh giết, trốn vào Nam phò Tây Sơn, đem quân ra Bắc diệt Trịnh thao túng quyền hành Bắc Hà rồi bị tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm giết.. Tuy nhiên tình hình lúc Nguyễn Du làm bài này là lúc Gia Long liên tiếp thắng nhiều trận lớn từ Gia Định đang đánh tới, Bình Thuận, Diên Khánh Nha Trang. Một sân mưa đọng kiến bò cao, xã hội đầy những kẻ thấp kém bất tài thừa cơ nước lụt bò lên cao. Nguyễn Du ám chỉ quân Tây Sơn thời mạt vận chăng ? Khác với anh Nguyễn Nể phò nhà Tây Sơn, được vua Quang Trung trọng dụng, ưu đãi, hai lần được đi sứ, được giao cho trấn đóng Thành Bình Định, quê hương nhà vua, được dâng sách, dạy vua đọc hàng ngày và thảo chiếu biểu cho Vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Du theo Gia Long và khinh miệt Tây Sơn, khi cho Tây Sơn là kiến, khi là sâu trùng.(Cóc nhái quần bếp vắng, Sâu trùng bò mé ngoài, bài Bất Mị) Dòng dõi nho gia, chiếc chăn xanh vật cũ, anh vẫn giữ mãi, giấy rách giữ lấy lề, giữ thanh danh ông cha mình. Tóc bạc rồi, tài năng chí khí mình như thế mà chưa làm nên được việc gì thật quái lạ. Bệnh tái phái, anh đang lo chạy chữa nên chậm thơ phúc đáp thơ em.

Mở cửa sổ                                                                                Khai song
Trước nhà cảnh vật đã ra sao,                                                   Môn tiền yên cảnh cận như hà ?
Mở cửa ngày nhàn sinh ý nhiều.                                     Nhàn nhật khai song sinh ý đa.
Sáu tháng gió tung bằng lượn mãi;                                            Lục nguyệt bồi phong bằng tỉ địa.
Một sân mưa đọng kiến bò cao.                                                Nhất đình tích vũ nghĩ di oa.
Chăn xanh vật cũ khư khư giữ.                                      Thanh chiên cựu vật khổ trân tích,
Tóc bạc hùng tâm luống nghẹn ngào.                             Bạch phát hùng tâm không đốt ta.
Trở bệnh hãy còn lo chạy chữa,                                     Tái bệnh thương tu điều nhiếp lực,
Biết chi thu tứ đến nhà nao ?                                                     Bất tri thu tứ đáo thùy gia.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Lục nguyệt bồi phong bằng tỉ địa: Sách Trang Tử, thiên Tiêu dao du: Loài chim ấy thấy biển động bèn bay sang biển Nam. Chim Bằng bay qua biển Nam, làm sóng nước nổi lên ba ngàn dậm, nương gió bay lên chín vạn dậm, bay sáu tháng mới nghỉ. Bởi vậy khi chim bằng bay lên cao, cưỡi lên lớp gió dưới nó.
·10.      Xuân Hương lại gửi cho Nguyễn Du một bài thơ khác, bài Thu nhật tức sư.:. Ngọn gió Tây đêm qua mang lạnh về, dậu cúc dìu hiu dù không có tuyết. Mưa rơi nặng mặt nước sông mờ mịt, mưa dứt, trơ trọi một đám mây núi như có ai vẽ đường nét mi. Sen tàn cuối hạ còn lưu lại một chút hương mùa xuân cũ. Chim hót có thấu chăng cõi lòng mình,mỗi lời còn đọng mối tình thương nhớ quê. Trong thơ Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, gió Tây không chỉ là gió Lào từ hướng Tây, mà là quân Tây Sơn ra Bắc, do đó ta có thể đọc một cách khác những ẩn ý trong bài thơ tả cảnh để nói lên tình hình chính trị đương thời. Quân Tây Sơn ra Bắc làm cho tình hình đìu hiu. Cuộc chiến đang diễn ra trong Nam với quân Chúa Nguyễn, tình hình vẫn còn mờ mịt. Nay chỉ còn một mình Vua Tây Sơn nơi đất Bắc, triều đại nhà Lê suy tàn nhưng lòng người cũng còn nhớ đến. Có ai thấu chăng lòng mình còn nhớ đến quê hương.
Ngày thu tức cảnh                                                                                 Thu nhật tức sự
Đêm qua lành lạnh gió Tây về,                                       Tây phong tạc dạ áp hàn chi,
Dậu cúc đìu hiu tuyết chửa đi.                                        Ly cúc tiêu sơ tuyết vị chi.
Mưa nặng sông chia mờ mặt nước,                                           Mật vũ tà phi phân thủy diện,
Mây trơ núi biếc vẽ đường mi                                        Cô vân miêu chức viễn sơn mi.
Sen tàn cuối hạ làn xuân rớt,                                                      Liên dư tàn hạ lưu xuân đới,
Liễu rũ hương thừa áo biếc che.                                                Liễu bạng hương du lão thúy y,
Chim hót nỗi mình ai có thấu,                                         Đề điểu mạc phi tri ngã huống.
Lời lời còn đọng mối tình quê.                                       Thanh thanh trường động cố hương tri.

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương. Hương Đình Cổ Nguyệt Thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
·11 Nguyễn Du lại viết một bài thơ Thu nhật ký hứng, mở đầu bằng chữ Tây Phong đáp lại bài thơ Thu nhật tức sự của Hồ Xuân Hương.. Gió Tây mới đến, anh vẫn chưa về mà đã thấy khí trời lạnh lắm. Non sông nước cũ ngắm trông buổi chiều tà. Dù có xa em thân thế mặc như đám mây trôi nổi. Giật mình sợ cái cảnh già đến, đêm qua tiếng gió thu ở đâu nổi lên. Cười mình đầu bạc mà còn vụng thu xếp, đầy sân. Ta đọc lại bài thơ bằng hậu ý, Nguyễn Du tâm sự: Vì Tây Sơn ra Bắc nên chàng chưa về Thăng Long, không khí chính trị làm cho lòng dạ tái tê. Nhìn non nước cũ nhà Lê thời vận đã tàn, ở quê mình mà cũng như quê người, thân phận tha hương vẫn như đám mây trôi nỗi (khóc cười theo thời thế, im lặng giữ thân) Sợ rằng tuổi ngày một cao mà chưa làm nên việc gì, Đêm trước có nghe gió thu, từ phương Nam (Lạy trời cho có gió Nồm, để thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra) mọi người đều hay biết. .Tự trách mình bạc đầu còn vụng tính, nhìn lá vàng rơi rụng đầu hè.
Ngày thu cảm hứng                                                                   Thu nhật ký hứng
Gió Tây mới đến khách chưa về,                                                Tây phong tái đáo bất qui nhân,
Khí lạnh mười phần dạ tái tê.                                                     Đốc giác hàn uy dĩ thập phần.
Nước cũ non sông trời lặng ngắm,                                             Cố quốc hà sơn khan lạc nhật,
Quê người thân thế gửi mây che.                                               Tha hương thân thế thác phù vân.
Cái già chợt sợ nay đà đến,                                                       Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị,
Thu đến nơi nơi đêm trước nghe.                                               Hà xứ thu thanh tạc dạ vân,
Tự trách bạc đầu ta vụng tính,                                        Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
Lá vàng rơi rụng, rụng đầu hè.                                       Mãn đình hoàng lạc diệp phân phân.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Bạch đầu. Nguyễn Du thường tả mình dầu bạc, có lẽ ông bị bệnh bạc tóc sớm. Thế kỷ 18,19 tuổi thọ trung bình người Việt Nam chỉ trên năm mươi.Đặc biệt làng Tiên Điền có tục ăn lão năm 53 tuổi, trên tuổi này được xếp vào hạng trưởng lão, ăn trên ngồi trước trong làng.. Anh em Nguyễn Du chỉ sống trên dưới 55 tuổi.
Tha hương :Nguyễn Du còn ở Hà Tỉnh, đang nghĩ chuyện tha hương, vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh
·12   Thời gian xa cách thấm thoát đã hai năm. Nguyễn Du vẫn biền biệt nơi Hồng Lĩnh. Mẹ Xuân Hương thúc ép nàng lấy chồng, Có anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, con cụ Lang, cậy người mai mối. Nhân có người về Hà Tỉnh. Hồ Xuân Hương gửi thơ cấp báo:
Vài hàng viết thư gửi chàng mà chạnh lòng nước mắt rơi, tưởng rằng thức suốt năm canh ánh trăng vẫn còn đó, tưởng rằng em (nguyệt) có thể chờ đợi anh lâu hơn, nhìn lá nhuộm sương mai buổi sớm mà lòng thẹn (vì đã hẹn với chàng), màu sương khói chỉ làm rộn ràng nỗi buồn, bước ra ngoài nhà thẩn thơ trước gió, xa xa tiếng địch ai thổi chói tai (lời anh Lang xóm Tây theo ve vản nàng), muốn hỏi trăng già sao khe khắc với tình duyên đôi ta, trêu nhau làm chi mà xe mối tơ không trọn vẹn để đôi ta xa nhau. Phạm Đình Hổ đã chứng kiến, việc mẹ gã Xuân Hương cho anh thầy Lang, có lẽ cũng là học trò cụ Đồ Diễn, thư sinh ngày xưa không thi cử làm quan thì cũng hành nghề: Y, Lý, Bốc, Số, anh Lang không thi cử, trở về tiếp tục nghề nghiệp của cha. Bài Hoài Cổ. (Nhớ xưa) Phạm Đình Hổ viết về Xuân Hương, tôi dịch như sau: Năm xưa hoa đào nở, Em tôi học cài trâm. Năm nay hoa đào nở. Mẹ gả xóm Tây gần. Năm nay hoa đào nở, Gió xuân sao lạnh lùng. Em nhìn hoa mà khóc. Sầu vương nét mi cong. Năm nay hoa đào nở, Cỏ xuân mượt trời mơ. Bên hoa em cười nụ, Ngâm thành tự đề thơ.Phạm Đình Hổ là người ham học hỏi, thấy người tài là đến chơi, thấy nhà ai có nhiều sách hay thì đến đọc, thấy việc gì cũng ghi chép. Trong thơ văn ông, tôi khám phá, ông chứng kiến mối tình Xuân Hương với Nguyễn Du, với anh Thầy Lang, với Mai Sơn Phủ, và cho Xuân Hương mượn tiền để mở quán sách Phố Nam thành Thăng Long, cạnh đền Lý Quốc Sư và trường ông Nghè Phạm Quý Thích, sau khi Xuân Hương dứt tình với Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà. Xuân Hương không tự đề thơ, mà viết bài thơ cuối cùng cho Nguyễn Du.

Họa nhân..
Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu;
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lâu.
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,
Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,
Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,
Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,
Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương. Lưu Hương ký
·13   Nguyễn Du phúc đáp bằng bài thơ Ký Mộng, mơ Xuân Hương, bỏ mẹ, bỏ lớp dạy trẻ , vượt đèo Tam Điệp đầy hổ báo, vượt Sông Lam lắm cá sấu, đường đi thật hiểm trở, vào Hồng Lĩnh thăm mình. Tỉnh dậy viết bài Ký mộng gửi Xuân Hương, nên năm 1813 khi tình duyên tan vỡ, đò đã qua mấy chuyến, trong bài Cảm Cựu Khiêm Trình Cần Chánh Học sĩ Nguyễn Hầu, mừng chàng làm Chánh Sứ: Xuân Hương nhắc lại: Giấc mộng rồi ra nửa khắc không . Đáp lại các câu thơ: Mộng đến ngọn đèn sáng, mộng đi gió lạnh lùng, giai nhân nào thấy nữa, lòng ta rối tơ vương.
Bài Ký mộng Nguyễn Du viết: Thời gian như nước chảy suốt ngày đêm, người đi xa mãi chưa về, bao năm rồi không gặp mặt nhau,biết làm sao vơi hết nỗi nhớ thương. Nay trong mộng thấy rõ ràng, nàng đến tìm ta nơi bến sông (Giang Đình). Vẻ mặt vẫn như xưa, nhưng áo quần nàng không buồn chăm sóc. Thoạt tiên nàng kể nỗi đau ốm, rồi than thở nỗi chờ mong những ngày xa cách. Sụt sùi không nói hết lời, phản phất như cách nhau một bức màn sa. Bình sinh vốn không biết đường. Mộng hồn chẳng rõ thực hay hư. Núi Tam Điệp (Ba Dội) nhiều hổ báo, sông Lam có lắm cá sấu. Đường đi hiểm trở khó khăn, thân gái biết nhờ cậy ai ? Mộng đến ngọn đèn cô đơn giọi sáng, Mộng tàn gió thổi lạnh lùng, Mỹ nhân không thấy nữa, Lòng ta rối như tơ vương, Nhà trống ánh trăng nghiêng soi vào, chiếu xuống tấm áo cô đơn của ta.. Ngày trước ông Đào Duy Anh, trong cuốn Khào luận Truyện Kiều căn cứ vào câu Du tử hành vị quy, cho rằng Nguyễn Du nhớ vua Lê Chiêu Thống. Các ông Lê Thước, Trương Chính trong thơ Chữ Hán Nguyễn Du cho rằng nhớ một người bạn cũ, sau đó lại cho rằng nhớ người vợ trước em Đoàn Nguyễn Tuấn. Riêng tôi, Nguyễn Du không gọi là hiền thê, vợ hay bạn hay vua mà gọi là mỹ nhân, Mỹ nhân đó chính là Xuân Hương Hồ Phi Mai., lúc đó Nguyễn Du còn cô đơn chưa vợ. Ba mươi tuổi Nguyễn Du mới về Quỳnh Hài cưới vợ, lúc ở Hồng Lĩnh chỉ ở một mình bếp lạnh hoang vắng.                                      

Ghi lại giấc mộng                                                                                  Ký mộng

Dòng nước ngày đêm chảy,                                                                  Thệ thủy nhật dạ lưu,                
Người biệt chốn cố hương.                                                                   Du tử hành vị qui.
Bao năm không gặp mặt,                                                                      Kinh niên bất tương kiến,
Làm sao hết nhớ thương.                                                                      Hà dĩ úy tương ti (tư).
Trong mộng rành rành thấy,                                                                   Mộng trung phân minh kiến,
Tìm ta nơi bến sông,                                                                             Tầm ngã giang chi mi.
Dung nhan vẫn như trước,                                                                     Nhan sắc thị trù tích,
Y trang buồn biếng chăm.                                                                      Y sức đa sâm si.
Trước kể nỗi đau ốm,                                                                            Thỉ ngôn khổ bệnh hoạn,
Rồi than những ngày xa.                                                                        Kế ngôn cửu biệt ly.
Nghẹn ngào không nói hết,                                                                    Đái khấp bất chung ngữ,
Dường cách bức màn sa.                                                                      Phảng phất như cách duy.
Bình sinh không thuộc lối,                                                                      Bình sinh bất thức lộ,
Mộng hồn biết thật chăng ?                                                                   Mộng hồn hoàn thị phi ?
Núi Điệp đầy hổ báo,                                                                             Điệp sơn đa hổ trĩ,
Sông Lam lắm thuồng luồng,                                                                 Lam thủy đa giao ly,
Đường đi thật hiểm trở,                                                             Đạo lộ hiểm thả ác,
Phận gái nhờ ai không ?                                                                        Nhược chất tương hà y ?
Mộng đến đèn côi sáng,                                                                        Mộng lai cô đăng thanh
Mộng tan gió lạnh lùng,                                                             Mộng khứ hàn phong xuy,
Người đẹp nào thấy nữa,                                                                      Mỹ nhân bất tương kiến,
Lòng ta rối tơ vương.                                                                            Nhu tình loạn như ti.
Nhà trống vầng trăng xế,                                                                       Không lâu ốc tà nguyệt,
Soi manh áo cô đơn,                                                                             Chiếu ngã đan thường y.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch.
Chú thích:
Cách duy: cách bức màn. Hoàng hậu vua Hán Vũ Đế là Lý phu nhân, sắc đẹp, múa giỏi, chết sớm. Vũ Đế rất thương tiếc. Có người phương sĩ nói có thể chiêu hồn Lý phu nhân về, vua bằng lòng. Ban đêm, người ấy bèn giương màn, đốt nến, để vua ngồi tron màn, nhìn sang một bức màn khác, thấy bóng một người giống Lý phu nhân.
Nhược chất: tư chất phụ nữ yếu đuối.
Nhu tình: mối tình vương vấn thắm thiết.
·14    Sau khi gửi bài thơ này cho Hồ Xuân Hương năm 1795.Hồ Xuân Hương hiểu mối tình mình chỉ là giấc mộng. Nguyễn Du thôi làm Hồng Sơn Liệp Hộ mà làm Nam Hải Điếu Đồ, đi câu cá biển Nam Hải. Tâm sự Nguyễn Du lúc này trong bài Tạp thi I viết: Bạc đầu tráng sĩ ngửng trời than, Dựng nghiệp mưu sinh thảy lỡ làng, Thu Cúc, Xuân Lan thành mộng ảo. Hạ nồng, đông lạnh cướp ngày xanh.. Nguyễn Du cho rằng chuyện tình của mình với cô Cúc làng Trường Lưu hay với Xuân Hương làng Nghi Tàm đều đã thành mộng ảo.Về Hồng Lĩnh, Nguyễn Du tâm sự với người bạn cũ Thực Đình (bút hiệu có nghĩa là người ăn ở đình làng) Họp bạn khó tìm người mắt biếc. Sau vụ khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, làng Tiên Điền bị làm cỏ, người sống sót chẳng ai dám tỏ một thái độ gì. Do đó Nguyễn Du không thể ở lại, dạy học, cũng không thể tìm ra thủ hạ, do đó, tôi bác bỏ đoạn gia phả Nguyễn Tiên Điền chép: Nguyễn Du từ Hà Tỉnh dẫn thủ hạ mang quân lương ra tiếp rước Vua Gia Long. Và được đưa ra Bắc phong tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam. Trên bước đường tìm mánh mung vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh, có lẽ Nguyễn Du đã rơi vào bẩy của công an biên phòng của Hiệp Trấn Hà Tĩnh Nguyễn Văn Thận, nên thay vì vào Khánh Hoà, Nguyễn Du bị chở thẳng vào tù. Nguyễn Văn Thận nể tình bạn thân với Nguyễn Nể, và tài thơ văn Nguyễn Du nên chỉ cho học tập cải tạo sơ sơ mười tuần (ba tháng) trong . Bài Cảm Hứng trong tù Nguyễn Du cho rằng nổi lòng mình không ai biết: Tâm sự chút lòng, ai biết tỏ, Như sông Quế sâu dưới non Hồng. Nguyễn Văn Thận giữ vững Hà Tĩnh cho đến năm 1802, vua Gia Long tiến đánh, Thận thua trận chạy ra Thanh Hóa và bị giết ở đó.
Tin tức Nguyễn Du bị tù đã ra tới Thăng Long. Hồ Phi Mai lên đường về nhà chồng anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm.
Nguyễn Du sau khi ra tù , ban đêm Nguyễn Du đã đi bộ trốn ra Thăng Long bài Dạ hành: Trăng xế biển Nam ngàn dậm chiếu, Đường xa gió lộng một người trông. Đêm đen mờ mịt bao giờ sáng, Đầu bạc mà còn vụng dấu thân. Trên đường đi Nguyễn Du phải đi ăn xin: Bài Khuất Thực, Nguyễn Du viết: Chống gươm ngạo nghễ thét trời xanh, Ba chục năm trong bùn hôi tanh, Chữ nghĩa ích gì cho cuộc sống, nào ngờ đói rách người thương tâm.
Đến Thăng Long Nguyễn Du đến một quán khách quen biết bên bờ Hồ Tây, chủ quán cho hay Xuân Hương Hồ Phi Mai đã đi lấy chồng, anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Chủ quán mời một bình trà, Nguyễn Du uống bao nhiêu lần, không tiền nên chỉ xin nước sôi uống trà lạt, ngồi viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên. Bài thơ oán trách Hồ Xuân Hương thậm tệ, nhưng nàng vẫn trân trọng lưu trong tập thơ Lưu Hương ký.   Đã giao du với nhau mấy năm tròn, thề thốt tình thâm giao xe, nón mãi mãi còn.. Xe nón do chữ Xạ lạp theo sách Phong thổ ký, phong tục nước Việt thuần phác. Trong buổi sơ giao, hai bên làm lễ kết nghĩa thường có lời thề: Anh cỡi xe, tôi đội nón, khi gặp nhau sẽ xuống xe vái chào tôi., anh cầm ô tôi cỡi ngựa, khi gặp nhau tôi sẽ xuống ngựa chào anh.. Thơ Khổng Bình Trọng: Việc đời biến đổi khôn lường, chớ vì cởi xe mà khinh kẻ đội nón. Vì thế tình thân là xạ lạp chi giao, mối giao tình xe nón.. Không biết tại lòng nàng tham giàu sang mà thay dạ đổi lòng, lòng đen tựa mực đi lấy chồng thầy thuốc, còn tôi học tập cải tạo mới ra, tình tôi vẫn thắm như son, một lòng yêu nàng. Tai tôi chưa quên lời vàng ngọc của nàng, nàng có mắt hãy xem tôi làm nên sự nghiệp với nước non. Chớ trách chúa xuân, vì sợ chờ đợi tôi mà mỏi mệt sợ lỡ thì. Tình nàng sớm mận tối đào như thế có xứng đáng dòng dõi con nhà quyền quí chăng. ? Còn có bài thơ trách móc nào đau đớn hơn.
 Chí Hiên tặng I
Chữ giao nguyền với mấy năm tròn,
Xe nón tình kia mãi mãi còn.
Chẳng biết dạ người đen tựa mực,
Sao hay lòng khách thắm như son.
Còn tai chữa lãng lời vàng ngọc,
Có mắt mà xem mặt nước non.
Chớ trách chúa Xuân lòng mỏi mệt;
Mận đào được thế tiếng công môn.
 Thơ chữ Nôm Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương lưu trong Lưu Hương ký.
·15.   Bài Chí Hiên tặng II. Nguyễn Du không trách móc nữa mà bày tỏ lòng mình. Rủi may nào xá gì, nghĩ rằng cùng tắc thông, thông tắc biến, biến tắc hóa theo Kinh Dịch.. Ra Bắc phen này (1796) mong làm nổi việc, Nghĩ lại việc vào Nam (1794) cũng hoài công, Hà Tỉnh chẳng ai theo, chẳng thể lập cứ địa chống Tây Sơn, cũng chẳng thể vượt biển vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh.. Bạn thơ cũ nay đâu, ngồi uống trà một mình, uống bao nhiêu bình nước rồi ấm trà đã nhạt. Quán trọ đêm qua năm canh không ngủ được vì manh áo quá mong manh, trời đã vào lập đông.. Trông ra sông hồ mù mịt sương khói từ biển thổi vào.Người xưa Cổ Nguyệt đường lòng như tấm gương trong nào thấy đâu?
Chí Hiên tặng II.
Rủi may nào sá nghĩ cùng thông,
Chưa dễ tri âm tỏ nỗi lòng.
Ra Bắc phen này mong nổi việc.
Vào Nam ngẩm trước cũng hoài công.
Bạn tao năm hết mâm trà lạt.
Quán khách canh chảy mảnh áo mong.
Gớm nhẽ trông ra mù khói bể
Nguyệt đường bao nã thấy gương trong

Nguyễn Du tìm đến nhà Đoàn Nguyễn Tuấn, bên bờ sông Nhị, Đoàn đang làm quan Tây Sơn, nhà cao cửa rộng: Trên bờ sông Nhị nhà chen gần, Đã chiếm cả thành hết cảnh xuân, Cầu gác Đông Tây cao ngất dựng. Chẳng kém gì các biệt thự các vị quan ngày nay. Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn gả em gái út, và giao cho gia trang tại Quỳnh Hải năm 1797. Từ đây Mùa Xuân Quỳnh Hải, sau khi góc biển chân trời ba chục tuổi, Nguyễn Du mới biết đến hạnh phúc: Trăng sáng đầu xuân tỏa ngập tràn, Bao giờ trăng chẳng nhạt thuyền quyên, Một trời xuân hứng nhà ai lạc. Muôn dậm Quỳnh Châu nguyệt sáng ngần. Ở đây Nguyễn Du chấm dứt cuộc đời Mười năm gió bụi có vợ con, dạy học, dạy văn và võ, hoàn tất Truyện Kiều. Năm năm Quỳnh Hải (1797-1802) Nguyễn Du đã giàu có, nên khi Vua Gia Long kéo quân ra đất Bắc đánh bắt vua Tây Sơn, Cảnh Thịnh. Nguyễn Du từ Quỳnh Hải dẫn thủ hạ, học trò và tráng đinh Quỳnh Hải, đem theo lương thực, ngựa ,bò, heo dâng sớ đón rước nhà vua. Đến Phù Dung trấn Sơn Nam thì gặp Vua Gia Long, vua phong ngay cho làm tri huyện Phù Dung. Sự kiện này tương tự như Phi Tử thời Chiến Quốc, người đất Phù Ngưu dâng ngựa lên Vua Chu Hiếu Vương được phong chức Phụ Dung nước phụ chư hầu. Từ đó Nguyễn Du có tên Phi Tử, Nguyễn Hành trong Minh Quyên thi tập bài Đi săn có nhắc đến bút hiệu này.
THI YÊN ĐÌNH NGUYÊN biên tập và GIỚI THIỆU